Bình Định chú trọng công tác phát triển đảng viên



 Hội nghị chuyên đề công tác phát triển đảng viên ở Bình Định giai đoạn 2022-2025

Triển khai đồng bộ, kết quả rõ nét


Hiện nay, Đảng bộ tỉnh Bình Định có 17 đảng bộ trực thuộc (8 đảng bộ huyện, 2 đảng bộ thị xã, 1 đảng bộ thành phố, 2 đảng bộ khối, 3 đảng bộ lực lượng vũ trang, 1 đảng bộ cơ sở được giao một số quyền cấp trên cơ sở); 830 TCCSĐ (309 đảng bộ cơ sở, 521 chi bộ cơ sở); 11 đảng bộ bộ phận và 3.204 chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở với 72.666 đảng viên.

BTV Tỉnh ủy xác định công tác phát triển đảng viên là nhiệm vụ chính trị quan trọng của các cấp ủy đảng, nhất là cấp ủy cơ sở. Theo đó, nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp đều đề ra mục tiêu, giải pháp để phát triển đảng viên. Ngay từ đầu các nhiệm kỳ đại hội, tỉnh đã ban hành các chương trình, kế hoạch cụ thể, tổ chức các hội nghị chuyên đề về phát triển đảng viên trong đội ngũ công chức, viên chức, ở khu vực nông thôn, trong doanh nghiệp, kết nạp đảng viên nữ, đoàn viên thanh niên, người DTTS, học sinh, sinh viên như: Chương trình hành động số 08-CTr/TU ngày 20-10-2016 của BCH Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX Đảng bộ tỉnh về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên giai đoạn 2016 - 2020; Chương trình hành động số 05-CTr/TU ngày 14-5-2021 của BCH Đảng bộ tỉnh về thực hiện Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên giai đoạn 2020 - 2025; Chỉ thị số 28-CT/TU, ngày 06-12-2017 của BTV Tỉnh ủy về “Tiếp tục đổi mới, tăng cường công tác kết nạp đảng viên”; Kế hoạch số 49-KH/TU ngày 12-4-2019 thực hiện Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21-01-2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”; Chỉ thị số 13-CT/TU ngày 22-11-2021 của BTV Tỉnh ủy về “Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2020 - 2025”;… Trong quá trình tổ chức thực hiện, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đã cụ thể hóa và có nhiều đổi mới, sáng tạo, bảo đảm đồng bộ giữa chủ trương của cấp ủy với cơ chế, chính sách và nhiệm vụ, giải pháp cụ thể; thường xuyên đổi mới tác phong công tác, lề lối làm việc theo hướng sâu sát, cụ thể, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm; chủ động nghiên cứu những vấn đề nổi cộm, bức xúc ở cơ sở để ban hành văn bản lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề thực tiễn đặt ra.

Thực hiện các quy định, hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy, các huyện ủy, thị ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các chi, đảng bộ trực thuộc nắm chắc nguồn phát triển đảng viên, xây dựng kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng kết nạp, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho quần chúng, trang bị nhận thức, sự hiểu biết về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, định hướng cho quần chúng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn; chú trọng lựa chọn quần chúng tiêu biểu, đủ tiêu chuẩn để phát triển đảng nhằm nâng cao chất lượng đảng viên mới; nghiên cứu, nắm vững quy trình, thủ tục, các bước triển khai từ khâu giới thiệu tạo nguồn đến công tác bồi dưỡng, công tác thẩm tra hồ sơ, lý lịch, kết luận tiêu chuẩn chính trị để kết nạp đảng viên. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng kế hoạch tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức về Đảng; tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước, hoạt động sôi nổi để thu hút, tập hợp đoàn viên, hội viên tham gia; chăm lo bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng ưu tú hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao để xem xét giới thiệu kết nạp vào Đảng. Với những giải pháp đồng bộ, từ năm 2016 đến năm 2021, toàn Đảng bộ tỉnh đã kết nạp được 15.828 đảng viên, bình quân mỗi năm kết nạp 2.638 đảng viên, tỷ lệ đảng viên mới được kết nạp trong độ tuổi thanh niên bình quân đạt 71,13%. Số lượng, chất lượng đảng viên năm sau cao hơn năm trước. Năm 2016: 63.090 đảng viên; năm 2017: 65.514 đảng viên; năm 2018: 68.002 đảng viên; năm 2019: 69.714 đảng viên; năm 2020: 70.963 đảng viên; năm 2021: 72.505 đảng viên. Số đảng viên mới được kết nạp là nữ, trẻ, trình độ đại học ngày càng tăng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các TCCSĐ và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn tỉnh. Có 6.893/13.542 đảng viên nữ, chiếm 50,9%; 9.677/13.542 đảng viên là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, chiếm 71,5%.

Vẫn còn nhiều khó khăn

Hội nghị chuyên đề bàn về công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2022-2025 đã nhận định những khó khăn ảnh hưởng đến công tác phát triển đảng viên, đó là: Việc giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương gặp nhiều khó khăn, trong đó có công tác phát triển tổ chức đảng, đảng viên nhất là việc phát triển đảng viên ở khu vực nông thôn, trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Đối với lực lượng trẻ tuổi, đa số học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường đều không muốn ở lại quê hương mà tìm kiếm việc làm ở những thành phố lớn hoặc đi xuất khẩu lao động; số thanh niên trong độ tuổi lao động ở lại địa phương lại đi làm trong các công ty, doanh nghiệp, lao động tự do... xa nơi cư trú, không có thời gian để tham gia sinh hoạt các đoàn thể; một số khác không tham gia các hoạt động phong trào do địa phương, đoàn thể phát động, mà tập trung phát triển kinh tế; số còn lại trình độ, năng lực hạn chế hoặc không đủ tiêu chuẩn, điều kiện về chính trị, trình độ văn hóa. Đối với vùng đồng bào DTTS, việc kết nạp đảng viên gặp khó khăn trong việc khai lý lịch. Bên cạnh đó, tình hình tôn giáo, tệ nạn xã hội tiềm ẩn những yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến công tác phát triển đảng viên.

Về nhận thức, tư tưởng, xu hướng của quần chúng nhân dân, thế hệ trẻ khi tuyên truyền, vận động quần chúng phấn đấu vào Đảng, một số ít quần chúng, nhất là người lao động trực tiếp ở nông thôn, ở các khu, cụm công nghiệp vẫn băn khoăn và có suy nghĩ: “Vào Đảng để làm gì, được cái gì”, “Chỉ có cán bộ mới cần phấn đấu vào Đảng”, hay “Không có thời gian để sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ của đảng viên”… Nhiều quần chúng là hội viên, đoàn viên trong các tổ chức chính trị - xã hội ngại tham gia các hoạt động phong trào ở địa phương. Một số viên chức, người lao động ở các đơn vị sự nghiệp như trường học, y tế chỉ tập trung cho chuyên môn, không có nguyện vọng vào Đảng.

Về nguồn quần chúng để xem xét kết nạp vào Đảng ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn cũng có những khó khăn nhất định. Đối với địa bàn các xã, phường, thị trấn nguồn kết nạp chủ yếu dựa vào các tổ chức đoàn thanh niên, hội nông dân, hội phụ nữ, ngoài ra còn có thêm các nguồn từ lực lượng dân quân, giáo viên, nhân viên y tế và công nhân lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã. Tuy nhiên, số quần chúng trong độ tuổi lao động đủ tiêu chuẩn, điều kiện laị đi làm ăn xa, xuất khẩu lao động, đi nghĩa vụ quân sự; số quần chúng còn lại thiếu ý chí phấn đấu vươn lên, ngại tham gia sinh hoạt đoàn thể. Tình trạng “già hoá” đảng viên ở các chi bộ nông thôn ngày càng cao, đảng viên được miễn sinh hoạt đảng ngày càng nhiều, nhiều thôn thiếu đảng viên trẻ có năng lực, uy tín để giới thiệu đảm nhận các chức danh ở thôn. Tại các cơ quan hành chính, sự nghiệp nguồn kết nạp đảng ngày càng giảm, có cơ quan, đơn vị không còn nguồn kết nạp Đảng do hầu hết cán bộ công chức, viên chức, người lao động đều là đảng viên; việc tinh giảm biên chế đã ảnh hưởng đến nguồn kết nạp Đảng.

Tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có quy mô hoạt động nhỏ, sản xuất theo mùa vụ, số lượng lao động làm việc tại các doanh nghiệp ít, phân tán, không ổn định nên khó khăn trong việc thực hiện công tác phát triển đảng viên.

Tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông: nguồn trong lực lượng giáo viên, giảng viên còn nhiều, tuy nhiên một số không muốn vào Đảng. Đối với các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp không thuận lợi trong quá trình theo dõi, thực hiện các quy trình, thủ tục kết nạp đảng trong học sinh, sinh viên vì thời gian học tập ngắn (hệ cao đẳng 3 năm, hệ trung cấp 2 năm).  

Bên cạnh đó, việc phân công đảng viên chính thức theo dõi, giúp đỡ đối tượng cảm tình Đảng của một số chi bộ chưa cụ thể, rõ ràng; không ít đảng viên được phân công theo dõi, giúp đỡ quần chúng chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm, năng lực, am hiểu về công tác đảng còn hạn chế; một số đồng chí ngại tiếp xúc để nắm bắt tâm tư, định hướng, giúp đỡ quần chúng để họ vững tin và quyết tâm phấn đấu vào Đảng.

Một số cán bộ làm công tác nghiệp vụ chưa nắm vững kiến thức chuyên môn; chưa cập nhật kịp thời những văn bản quy định, hướng dẫn của Trung ương, Tỉnh ủy; chưa thực sự sát sao trong hướng dẫn thực hiện nguyên tắc, quy trình, thủ tục kết nạp đảng viên,… Ngoài ra, do biên chế thiếu, cán bộ cấp huyện kiêm nhiệm nhiều việc, thường xuyên thay đổi công tác, thiếu kinh nghiệm thực tế nên chưa tham mưu và đề xuất được những giải pháp thiết thực. Cán bộ cấp xã hoạt động không chuyên trách, các đồng chí cấp uỷ chi bộ thôn đều kiêm nhiệm, phụ cấp thấp, thời gian dành cho công tác đảng còn ít, nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế nên phần nào ảnh hưởng tới kết quả hoạt động công tác xây dựng Đảng nói chung và công tác phát triển đảng nói riêng.

Nhiệm vụ đặt ra

Thứ nhất, các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, đảng viên về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phát triển đảng viên trong công tác xây dựng Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các chỉ thị, kết luận của Trung ương, Tỉnh ủy về công tác phát triển đảng viên. Chú trọng kết nạp đảng viên cả về số lượng và chất lượng; tiếp tục phấn đấu giai đoạn 2022 - 2025 kết nạp đảng viên mới bình quân hàng năm đạt trên 4% so với tổng số đảng viên toàn Đảng bộ theo chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XX và Chương trình hành động số 05-CTr/TU ngày 14-5-2021 của Tỉnh ủy về “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và chất lượng đội ngũ đảng viên giai đoạn 2020 - 2025” đã đề ra. Đặc biệt là tổ chức quán triệt và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa XIII) về xây dựng TCCSĐ và đảng viên.

Thứ hai, để công tác phát triển đảng viên thật sự có chất lượng, các cấp ủy, tổ chức đảng phải xác định rõ công tác phát triển đảng viên là một nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Cần phải thực hiện tốt nhiều khâu, nhiều bước theo một quy trình chặt chẽ, nghiêm túc: từ tuyên truyền, giáo dục, tạo nguồn, bồi dưỡng, kết nạp đến giúp đỡ đảng viên dự bị trở thành đảng viên chính thức, trong đó khâu tạo nguồn, bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Các cấp ủy phải xây dựng kế hoạch, khảo sát nguồn và giao chỉ tiêu kết nạp đảng viên cụ thể cho các tổ chức đảng trực thuộc ngay từ đầu năm; phân công cấp ủy viên, đảng viên, các đoàn thể theo dõi, giúp đỡ; chú trọng phát triển đảng viên là nữ, đoàn viên thanh niên, trí thức, quân nhân dự bị, dân quân tự vệ, học sinh, sinh viên và công nhân lao động trong các đơn vị kinh tế tư nhân. Tổ chức các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng và lớp bồi dưỡng đảng viên mới bảo đảm nghiêm túc, chất lượng; những nơi khó khăn, đối tượng đặc thù có thể tổ chức hình thức học trực tuyến hoặc bố trí học vào ngày nghỉ, ngoài giờ hành chính cho phù hợp. Định kỳ hằng quý, đánh giá phân tích chất lượng quần chúng ưu tú được đưa vào nguồn phát triển đảng viên để theo dõi, giúp đỡ. Quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, bí thư chi bộ, đảng viên trong việc tuyên truyền, giáo dục, giúp đỡ quần chúng vào Đảng, coi đây là một trong các tiêu chí đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên hàng năm.

Thứ ba, công tác kết nạp đảng viên và công nhận đảng viên chính thức phải được thực hiện chặt chẽ, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng. Đảng viên mới được kết nạp phải là quần chúng thực sự ưu tú, có phẩm chất đạo đức tốt, được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, có nhận thức đúng, đầy đủ về Đảng và có động cơ vào Đảng đúng đắn. Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục đảng viên; thực hiện chặt chẽ việc miễn sinh hoạt Đảng; thường xuyên rà soát, phát hiện, giáo dục, giúp đỡ, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng theo Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21-01-2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Thứ tư, định kỳ hằng năm, các cấp ủy kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác phát triển đảng viên ở các tổ chức đảng trực thuộc; kịp thời biểu dương, khen thưởng, đồng thời chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm của các tổ chức đảng, đảng viên, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm trong công tác phát triển đảng viên. Tăng cường quản lý, theo dõi, giáo dục đảng viên mới trong giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phát huy tính tiền phong, gương mẫu và thực hiện tốt nhiệm vụ đảng viên theo quy định Điều lệ Đảng.

Thứ năm, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Báo Bình Định, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh Bình Định tăng cường công tác tuyên truyền về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; giáo dục, phát hiện gương người tốt, việc tốt, đảng viên gương mẫu có uy tín trong công tác, lao động, sản xuất, chiến đấu, học tập; nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong việc triển khai thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, nhằm tạo sức lan tỏa, tập hợp quần chúng học tập, làm theo và tự nguyện phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng.

Thứ sáu, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Công đoàn cần làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, kết nạp đoàn viên, hội viên; tổ chức các hoạt động, phong trào, đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt thiết thực nhằm tạo diễn đàn cho đoàn viên, hội viên tham gia, qua đó phát hiện, giúp đỡ, bồi dưỡng, giáo dục, tạo nguồn kết nạp quần chúng ưu tú vào Đảng. Đồng thời, tập trung xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đoàn thể ở địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước.

Thứ bảy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy và ban tổ chức các cấp ủy trực thuộc Tỉnh ủy phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy giúp cấp ủy theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện công tác phát triển đảng viên giai đoạn 2022 - 2025; định kỳ sơ kết, tổng kết và báo cáo cho ban thường vụ cấp ủy để có hướng chỉ đạo.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Nếu Đảng ta không biết chọn lọc, kết nạp, đề bạt đồng chí mới thì đâu có như ngày nay”. Người vạch rõ tính tất yếu, yêu cầu, phương châm, phương pháp của công tác phát triển đảng là: “Để làm tròn nhiệm vụ rất nặng nề nhưng rất vẻ vang… Đảng phải phát triển tổ chức của mình một cách thận trọng, vững chắc và rộng rãi trong quần chúng”. Phải làm thật tốt công tác phát triển đảng viên để Đảng ta thu hút được những người ưu tú nhất, tiêu biểu nhất về phẩm chất, năng lực, trí tuệ kết nạp vào Đảng. Chỉ có như vậy, Đảng ta mới có đủ uy tín, năng lực, trí tuệ để lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tiến hành công tác phát triển đảng viên là yêu cầu khách quan, thường xuyên trong hoạt động lãnh đạo và trong công tác tổ chức xây dựng Đảng, nhằm tăng thêm sức chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng.

------

Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H.2002, tập 12, trang 91.


Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất