Đổi thay của đồng bào dân tộc giữa đại ngàn Quảng Nam
Những ngôi nhà mới ở khu dân cư Bằng La

Những ngôi nhà mới ở khu dân cư Bằng La.

Mầm sống mới đang nhen lên sau thảm hoạ

Vượt qua những cung đường núi quanh co với nhiều cua tay áo, điểm đầu tiên chúng tôi dừng chân là xã Trà Leng, huyện Nam Trà My, vùng đất cách đây 3 năm từng được nhắc đến với nhưng mất mát chưa từng có trong trận sạt lở nghiêm trọng năm 2020, xoá sổ toàn bộ nhà cửa của 39 hộ dân, cướp đi sinh mạng của 24 người ở hai làng Bố Đề và Tắk Pat của người Bh'noong.

Cổng chào Khu dân cư Bằng La, xã Trà Leng hiện lên vững chãi giữa khu đất bằng phẳng được ấp ôm bởi những đồi quế xanh mát của người Bh'noong. Theo tiếng người Bh'noong thì Bằng La có nghĩa là vùng đất bằng phẳng có nhiều cây tre mọc. Nơi mà UBND huyện Nam Trà My và UBND xã Trà Leng đã dồn lực khảo sát, lựa chọn và lấy ý kiến của đồng bào hai làng chỉ sau ít ngày khi trận lũ và sạt lở lịch sử năm 2020 đã cuốn phăng và nhấn chìm toàn bộ nhà cửa của 39 hộ dân cả hai làng. Chỉ cách làng cũ chừng 7km, nhưng địa thế an toàn hơn, được chính quyền địa phương và các Mạnh Thường Quân, nhà hảo tâm góp sức đầu tư hạ tầng và dựng nhà, nên người dân ở hai làng đã nhanh chóng đồng thuận, dời bỏ ngôi làng mà họ đã gắn bó nhiều năm để về nơi ở mới. Thôn Bằng La hiện có 39 hộ dân đến từ các làng Tắk Pát và Bố Đề.

Những căn nhà xinh xắn trên núi cao của người Cờ tu

Những căn nhà xinh xắn trên núi cao của người Cờ tu.

Tiếp chúng tôi trong căn nhà mới rộng 200m2 khang trang, được xây dựng theo mô hình nhà sàn dựa theo tập quán sinh hoạt của người Bh'noong, ông Hồ Văn Đề (người có công dựng làng Bố Đề bên dòng sông Leng 22 năm về trước và tên ông được chọn để đặt tên cho làng), đã khép lại nỗi đau mất con trai, con dâu, cháu nội cùng 5 người thân khác trong dòng họ. Ông là một trong những hộ được cấp nhà sớm nhất, tháng 2-2021, chỉ gần 1 năm sau sau thảm hoạ ở Trà Leng. Ông bà nhận bàn giao căn nhà trị giá 180 triệu đồng, trước Tết để sớm ổn định cuộc sống cũng như thờ cúng những người thân đã mất. Cuộc sống của hai vợ chồng già làng đã không còn cảm giác neo đơn khi căn nhà được nhận ở sát tuyến đường vào làng mới, vị trí trung tâm nên ông bà còn cho một y sĩ ở xã đặt tủ thuốc để thuận tiện bán các loại thuốc chữa bệnh thông thường cho dân làng.

Ánh mắt già Hồ Văn Đề tỏ rõ niềm vui khi mỗi ngày được các đồng chí Công an xã đến thăm hỏi như con trong nhà. Họ vẫn thân thương gọi ông là “bố Đề”. “Bố Đề” chia sẻ không bao giờ quên ơn Đảng, Nhà nước, chính quyền huyện Nam Trà My và xã Trà Leng để họ có được cuộc sống yên ấm, an toàn như hiện tại: “Giờ thì không lo đói, không lo chết nữa”. Ông Đề vẫn thường khuyên dân làng mới Bằng La: Có nhà mới, lại được hỗ trợ vốn và giống cây trồng (cây quế Trà My và cây cau), thì phải siêng năng làm ăn, để thoát nghèo, xây dựng cuộc sống mới tốt hơn trước. Hai vợ chồng ông giờ túc tắc làm cũng có thu nhập 40 - 50 triệu đồng/năm.

Thế hệ mới đang lớn lên tại Khu dân cư Bằng La

Thế hệ mới đang lớn lên tại Khu dân cư Bằng La.

Có những hộ đồng bào Bh’noong từng mất đi cả ngôi nhà sàn bằng gỗ, giá trị 300 triệu đồng vừa mới dựng ở làng Bố Đề trước đây như chị Trần Thị Liễu (sinh năm 1983), chồng bị cuốn đi theo dòng nước xoáy, không tìm thấy xác, thì nay cũng đã ổn định cuộc sống. Trong căn nhà của chị có đầy đủ đồ dùng sinh hoạt, ti vi, tủ lạnh và cả một chiếc loa để hát giải trí. Căn nhà vui hơn vì có tiếng bi bô của trẻ con, cháu bé mới 1 tuổi, là con của con gái chị, đang chập chững những bước đi đầu tiên. Và ở ngôi làng mới Bằng La, trong những căn nhà sàn xinh xắn, khang trang được quy hoạch ngăn nắp, với hàng cờ Tổ quốc trước nhà đều thấp thoáng bóng dáng của những đứa trẻ, thế hệ tiếp nối ríu rít chơi đùa. “Giờ mưa bão không còn sợ nữa. Ngay trước nhà là trường mầm non rộng đẹp. Nhà cũng có rẫy trồng hơn 5.000 cây quế chừng 20 năm tuổi; 2 vườn keo sắp đến ngày thu hoạch. Cuộc sống tạm ổn định như vậy là quá tốt rồi”, chị Liễu cười hạnh phúc.

Những cửa hàng tạp hoá nhỏ của các hộ dân cũng mọc lên làm cho khu dân cư Bằng La nhộn nhịp hơn hẳn. Cửa hàng của chị Hồ Thị Nan (1991) và anh Nguyễn Minh Đức (1991) mở từ 8h sáng bán bánh kẹo, bim bim, nước giải khát để thêm thu nhập. Anh Đức chia sẻ, mới đây, anh chị vừa được vay vốn 50 triệu từ Ngân hàng Chính sách huyện để nuôi dê, trồng rẫy và kinh doanh. Anh mong thời tiết thuận lợi, giao thương hanh thông để có thể phát triển kinh tế gia đình.

Khi nhắc lại vụ sạt lở cuốn trôi 30 hộ dân của 2 làng Bố Đề và Tắk Pát ở xã Trà Leng 3 năm trước, Thượng tá Mai Xuân Sang, Trưởng Công an huyện Nam Trà My mắt vẫn đỏ hoe. Bởi đó là thời điểm vô cùng khó khăn và căng thẳng đối với các lực lượng tham gia cứu hộ, hỗ trợ người dân. Nước lũ không ngừng tràn về khiến cả huyện miền núi Nam Trà My bị cắt điện, tê liệt toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc, giao thông. Để vào được Trà Leng, cán bộ chiến sĩ Công an huyện phải lội bộ đường rừng mất gần 1 ngày. Là lực lượng có mặt sớm nhất ở Trà Leng, chứng kiến sự tang thương tột cùng, các anh đã cầm cự cả tuần chỉ ăn cơm với chút cá khô, để lấy sức đào bới tìm kiếm và di chuyển người dân về nơi an toàn. Sự thay da đổi thịt ở của đồng bào dân tộc ở khu dân cư Bằng La hiện nay theo Thượng tá Mai Xuân Sang quả thực là kỳ tích. Ở đó là sự quyết tâm, là sự quyết đoán và sự đồng thuận từ chính quyền địa phương, người dân và những doanh nghiệp, cùng chung tay tái thiết, hồi sinh cuộc sống mới, bù đắp những mất mát, đau thương do thiên tai.  

Ông Phan Quốc Cường - Chủ tịch UBND xã Trà Leng chia sẻ: Người dân bị ảnh hưởng của vụ sạt lở được hỗ trợ nhà, hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm y tế… Bên cạnh đó, địa phương cũng vận động các mạnh thường quân hỗ trợ thêm cho bà con chi phí sinh hoạt ban đầu. Về sinh kế, sau khi tái định cư, bà con tiếp tục canh tác tại vùng đất trước đây bằng việc trồng quế, trồng cau ăn trái, cây ăn quả... Hiện, trung bình mỗi hộ có từ 1 đến 2 lao động, thu nhập 40-50 triệu đồng/năm. Bà con cơ bản đã ổn định cuộc sống nhưng tỉnh, huyện vẫn tiếp tục hỗ trợ về đào tạo nghề, điều kiện sản xuất, giải quyết việc làm, bố trí đưa con em đi học... “Hiện tại, có 1 em con đồng bào vừa tốt nghiệp đại học đã được nhận về xã làm việc và 5 em đang đi học”, ông Cường cho biết thêm.

Khu dân cư Bằng La hiện có 624 hộ dân với 2.890 nhân khẩu. Cơ sở vật chất đã bảo đảm cho đời sống hàng ngày. Những vết thương cũ đã lành. Những đứa trẻ - mầm sống mới đã rộ nở trên mảnh đất vừa xây. Những cánh rừng quế, keo, mít… đã đến mùa thu hoạch. Người dân nơi đây muốn quên đi câu chuyện cũ, muốn được hỗ trợ thêm sinh kế là những con giống, cây giống và đầu ra cho sản phẩm. Mong rằng, sớm có những chuyến xe đón hàng từ Khu dân cư Bằng La…

Đồng bào Cơ tu học trồng cây dược liệu thoát nghèo

Về thôn A rớh, xã Lăng thuộc huyện Tây Giang, một huyện miền núi cao còn nhiều khó khăn của tỉnh Quảng Nam, chúng tôi bắt gặp nếp sinh hoạt ngăn nắp, nền nếp của đồng bào dân tộc Cơ tu. Cùng với sự quan tâm của chính quyền địa phương, lực lượng Công an huyện, Công an xã thì người Cơ tu nơi đây có tổ chức rất chặt chẽ và kỷ luật; không trộm cắp và không có các hoạt động tệ nạn xã hội. Điều duy nhất phải làm cho đồng bào ở đây là làm sao phát triển kinh tế gia đình, phải coi “đói nghèo là giặc, là khổ, là nhục” là câu chuyện của già làng, nghệ nhân ưu tú Bh’riu Pố (sinh năm 1949) - người truyền cảm hứng cho người dân xã Lăng biết quý trọng thời gian, học kỹ thuật trồng cây dược liệu, đặc biệt là cây Ba kích, đào ao nuôi cá để vươn lên thoát nghèo.

Người Cơ-tu ở xã Lăng, huyện Tây Giang, Quảng Nam có ý thức gắn kết cộng đồng, hạnh phúc trong ngôi làng đẹp như tranh trên vùng núi cao

Người Cơ tu ở xã Lăng, huyện Tây Giang, Quảng Nam có ý thức gắn kết cộng đồng, hạnh phúc trong ngôi làng đẹp như tranh trên vùng núi cao.

Là người con của đồng bào Cơ tu được học hành đầy đủ, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Thái Nguyên trở về quê hương công tác tại phòng Giáo dục huyện và sau này ông đảm nhận chức vụ Bí thư, Chủ tịch xã Lăng từ năm 1989 đến năm 2005. Suốt 16 năm công tác tại xã, ông nắm và hiểu rõ từng hộ, từng người trong xã. Trăn trở nhất của ông là phải tìm được một mô hình kinh tế thực sự đúng đắn để làm mẫu cho bà con học theo, noi theo. Vì chỉ khi nhìn thấy thực tế thì họ mới tin, nói họ mới nghe mà làm theo. Hiện thực hoá mong muốn đó, ông đã xin nghỉ hưu sớm, không hưởng lương trong 2 năm để mày mò vào rừng tìm cây dược liệu. Với kiến thức được học và qua thực tế, ông biết được trên chính quê hương của mình có nhiều cây dược liệu quí, trong đó có cây Ba kích bản địa, mọc trong rừng sâu. Ông đã mày mò thử nghiệm để tìm cách trồng cây Ba kích theo phương pháp trồng tự nhiên, không dùng phân bón, giữ nguyên giá trị như Ba kích rừng.

Thời điểm năm 2017, 100 cây Ba kích đầu tiên được ông thử nghiệm trồng. Nhiều đồng bào trong thôn, trong xã nói ông bị điên, “cây của Trời, của Đất làm sao trồng được”. Nhưng chỉ 3 tháng sau, cây Ba kích trong rẫy ông Bh’riu Pố đã xanh tốt, ra củ, ra quả. Cứ như thế, hai vợ chồng ông lại hì hụi vào rừng đào Ba kích về nhân giống trồng. Hiện ông đã có 1,3ha trồng cây Ba kích. Mỗi năm ông đào 1.000 cây lấy củ bán, thu nhập 100 triệu đồng/năm. Ngoài ra, ông đào ao thả cá chép và cá trắm cỏ, thu nhập 210 triệu đồng/năm.

Già làng, nghệ nhân Bh'riu Pố thường xuyên phối hợp với lực lượng Công an cơ sở truyền cảm hứng để đồng bào xã Lăng vươn lên thoát nghèo

Già làng, nghệ nhân Bh'riu Pố thường xuyên phối hợp với lực lượng Công an cơ sở truyền cảm hứng để đồng bào xã Lăng vươn lên thoát nghèo.

Nhìn thấy hiệu quả từ mô hình kinh tế gia đình của nghệ nhân Bh’riu Pố mà đồng bào Cơ tu ở thôn A rớt và 4 thôn khác ở xã Lăng đã đến thăm rẫy trồng Ba kích của ông để học hỏi. Ông Bh’riu Pố cũng nhiệt tình hướng dẫn bà con cách trồng, chăm sóc để có thêm thu nhập thoát nghèo. Huyện Tây Giang cũng hỗ trợ bà con ở xã Lăng cây giống và cho thêm tiền hỗ trợ để chăm sóc cây. Từ ngày chăm chỉ trồng cây Ba kích và các cây dược liệu khác, 65-70% hộ dân ở xã Lăng đã dần xoá nghèo. Anh Bh’riu Tích thôn A rớt cũng học tập ông Bh’riu Pố trồng 2.500 cây Ba kích, ngoài ra còn trồng thêm cây cao su, cây keo... Anh cho biết, trồng cây Ba kích không mất phân bón, chỉ làm cỏ và thi thoảng xới đất, nên không tốn chi phí. Từ ngày trồng thêm cây này anh đã cải thiện thu nhập, từ hộ nghèo trở thành hộ cận nghèo.

Ông Bhling Mia, Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch HĐND huyện Tây Giang cho biết, Tây Giang là huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Quảng Nam, nơi có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số là người Cơ tu chiếm 98%. Đồng bào có nếp sinh hoạt lành mạnh, không có trộm cắp, không có buôn người, không có ma tuý, không có tệ nạn xã hội, 100% đồng bào tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Với lợi thế đó cùng với tiềm năng về rừng, tiềm năng dược liệu, tiềm năng văn hoá, đảng bộ, chính quyền huyện định hướng tập trung phát triển một cách hài hoà giữa bảo tồn gắn với khai thác, giữa du lịch với bảo vệ và phát triển rừng để khai thác tối đa tiềm năng của một số cánh rừng đã được công nhận là khu vực quần thể di sản như rừng Pơ mu cổ, rừng lim…, với các địa danh, thắng cảnh cách mạng, lịch sử để phát triển du lịch cộng đồng gắn với tiềm năng văn hoá vật thể và phi vật thể.

Đồng chí Bí thư Huyện uỷ Tây Giang cho rằng: “Quan trọng nhất là thay đổi được cách nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc, tạo việc làm thay đổi cuộc sống cho họ để giảm nghèo một cách bền vững”. Mục tiêu ấy rất cần những nỗ lực để một huyện miền núi cao nhất và thưa vắng dân cư nhất của tỉnh Quảng Nam thực sự chuyển mình như khẩu hiệu đầy quyết tâm mà chúng tôi bắt gặp từ cổng chào vào huyện “Tây Giang quyết tâm xây dựng nông thôn mới”.

Ngày 5-8-2023, huyện Tây Giang tưng bừng các hoạt động kỷ niệm 20 năm tái lập huyện (2003-2023). Từ một huyện 5 không: không đường, không điện thắp sáng, không trụ sở làm việc, không trường học, không trạm y tế, giờ đây toàn bộ đã hiện hữu khá đầy đủ, đồng bộ góp phần phát triển đời sống của đồng bào các dân tộc và giữ vững quốc phòng - an ninh. 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất