Bàn về vị trí cầm quyền của Đảng

“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Trong xã hội có nhiều giai cấp và tầng lớp, có thể có một đảng hoặc nhiều đảng, trong đó có đảng cầm quyền, có đảng không cầm quyền. Tùy theo điều kiện và tương quan lực lượng cụ thể ở mỗi nước, mỗi lúc mà có thể do một đảng hoặc một số đảng liên minh với nhau cầm quyền. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm “đảng cầm quyền” là để chỉ vai trò của Đảng khi đã giành được chính quyền. Cũng có nghĩa là Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo khi đã có chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân, làm cho mọi hoạt động của chính quyền thực hiện được chủ trương, đường lối của Đảng.

Vì sao Đảng phải nắm vị thế cầm quyền

Khái niệm “đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lê-nin nêu ra ngay từ trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau này, Chủ  tịch Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc, Bác Hồ viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Đại hội VI của Đảng (12-1986) khẳng định “Phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa” (1). Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(2). Không phải tự nhiên Đảng khẳng định được điều này, mà đây là thành quả của một quá trình dài với biết bao hi sinh, thử thách và đã được minh chứng bằng những thành quả trong suốt quá trình hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Sau khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng đã xây dựng được đường lối chính trị đúng đắn phản ánh sự kiên định, khoa học về mặt chiến lược; mềm dẻo, sắc sảo về sách lược và sáng tạo, phong phú, linh hoạt về phương pháp cách mạng. Đồng thời, từng bước đề ra, bổ sung và hoàn thiện đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn mỗi thời kỳ. Nhìn lại chặng đường lịch sử hơn 90 năm qua cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ những ngày đầu đã xác định được mục tiêu cách mạng, đáp ứng được những đòi hỏi và nguyện vọng cấp bách nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam. Và từ khi ra đời đến nay, vai trò lãnh đạo, uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Một đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng viên, đã kịp thời đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề giữa nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến, giữa mục tiêu dân tộc và mục tiêu dân chủ, giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra thời đại mới trong lịch sử của dân tộc. Cũng từ đây dân tộc và nhân dân Việt Nam giao phó trách nhiệm cầm quyền cho Đảng của mình.

Bước sang thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành 2 cuộc chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược (1945 – 1975), vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục được khẳng định bằng đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo; bằng sự dấn thân, hy sinh của những đảng viên cộng sản trên những mặt trận gian khổ nhất; bằng thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng sinh tử mà không lực lượng chính trị nào có thể thay thế được. Đảng đã giành chính quyền và giữ chính quyền, từng bước lãnh đạo dân tộc vượt qua thử thách hiểm nghèo, củng cố thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh trường kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hai miền Bắc - Nam thống nhất, cả nước cùng đi lên CNXH.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, sự lãnh đạo và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam càng được thử thách và khẳng định. Cũng từ đây Đảng ta thực sự trở thành Đảng cầm quyền đầy đủ và toàn vẹn nội hàm của nó với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới. Đồng thời, năng lực lãnh đạo, cầm quyền được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Bởi dù hoàn cảnh nhiều biến động phức tạp, nhiều khó khăn của tình hình trong nước và thế giới, nhưng Đảng vẫn kiên định mục tiêu cách mạng, giữ vững được tinh thần tự chủ, sáng tạo, lãnh đạo toàn dân tiến hành công cuộc đổi mới, từng bước gặt hái đươc nhiều kết quả quan trọng: “kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng được duy trì ở mức khá cao; tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên... Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh không ngừng được củng cố... Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao” (3). Đó là những thành tựu to lớn và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Những thành quả to lớn đó càng cho thấy rằng, ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới có khả năng lãnh đạo Nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc. Lợi ích của Nhân dân luôn gắn với sự nghiệp của Đảng và lý tưởng, ý chí của Đảng cũng là nguyện vọng và mơ ước của Nhân dân. Thực chất cái “quyền” mà Đảng “cầm” là cái “quyền” của dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, hay nói cách khác “quyền” của Đảng là do Nhân dân giao phó để Đảng lo cho Nhân dân, dân tộc, đất nước, để xây dựng chế độ mới - chế độ XHCN.

Vì vậy, Đảng luôn phải nhận thức được vai trò lãnh đạo, mỗi cán bộ, đảng viên cũng từ bản chất cầm quyền đó mà nhận thức cho đầy đủ vai trò, trách nhiệm và sứ mệnh của mình, hiểu được “quyền” mà Nhân dân giao phó cho mình là để phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Đồng thời, Đảng phải khẳng định được vị thế cầm quyền của mình, nghĩa là vừa phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân, trước dân tộc về lợi ích của Nhân dân, vừa phải nắm giữ các nhiệm vụ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, lãnh đạo nhà nước. Bởi vậy, bất cứ thế lực nào, tổ chức, cá nhân nào, dù bất cứ hình thức nào hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo, địa vị cầm quyền của Đảng đều là muốn xóa bỏ quyền lực từ tay Nhân dân, xóa bỏ nhà nước do dân, vì dân.

Nội hàm năng lực cầm quyền” theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng

Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, tạo điều kiện, tiền đề, bổ sung và chuyển hóa cho nhau. Giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền tuy có điểm chung, song cũng có điểm rất riêng.  Phương thức cầm quyền nắm rõ các hình thức, cách thức, phương pháp, nghệ thuật giữ quyền lực nhà nước theo pháp luật, thể hiện trong quá trình tổ chức nhà nước; bố trí đội ngũ cán bộ, quá trình lập pháp, thực thi quyền lực Nhà nước và giám sát, kiểm soát quyền lực. Lãnh đạo và cầm quyền là hai hoạt động không thể tách rời trong cùng một chủ thể, một quá trình tác động của Đảng đối với Nhà nước. Giữa phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, nhưng không đồng nhất. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện, mục đích của cầm quyền; còn cầm quyền là cơ sở để thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng. Tuy nhiên, "cầm quyền" và "lãnh đạo" có sự khác nhau, Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, chỉ thị, bằng quyết tâm chính trị và sự tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên; cầm quyền bằng pháp luật, chấp hành pháp luật của đảng viên, cấp ủy đảng trong bộ máy nhà nước. Lãnh đạo bằng sự vận động, thuyết phục nhân dân, thể chế hóa chủ trương, đường lối thành pháp luật của Nhà nước; cầm quyền bằng việc chấp hành pháp luật, tuân thủ quy trình pháp lý trong xây dựng pháp luật, trong thực thi quyền lực nhà nước. Lãnh đạo bằng giới thiệu những đại biểu ưu tú vào bộ máy nhà nước; cầm quyền là quá trình bầu, bổ nhiệm một cách dân chủ, đúng quy định của pháp luật. Lãnh đạo thông qua vai trò của tổ chức đảng trong cơ quan nhà nước; cầm quyền thông qua các cơ quan nhà nước để quán triệt chủ trương, đường lối trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng; cầm quyền bằng sự kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước.

Tuy nhiên, thực tế trong những năm qua, vấn đề đảng cầm quyền và sự cầm quyền của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vẫn còn nội dung chưa được nhận thức đầy đủ, sâu sắc, nhất là việc giải quyết mối quan hệ giữa quyền lãnh đạo của Đảng với quyền lực của Nhà nước. Vừa có tình trạng Đảng làm thay nhà nước, vừa có tình trạng Đảng buông lỏng lãnh đạo Nhà nước. Nhiều nơi, nhất là cấp cơ sở “vẫn còn tình trạng lúng túng, chưa phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ giữa Đảng và chính quyền. Có khi định hướng chung chung thì nhất trí, nhưng khi đi vào cụ thể hóa, xây dựng quy định, quy chế thì còn vướng mắc. Nhiều trường hợp vẫn chưa phân biệt được vấn đề nào cấp ủy cần ra nghị quyết, vấn đề nào ủy ban quyết định...có không ít nghị quyết của cấp ủy còn giống như của chính quyền và ngược lại”(4). Có nơi, có lúc chính quyền lấn át quyền lực; một số cơ quan, đơn vị thủ trưởng không phải là bí thư cấp ủy, thậm chí bí thư cấp ủy là cấp dưới của lãnh đạo chuyên môn... Sỡ dĩ còn những tình trạng này là vì chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề Đảng cầm quyền, “cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao” (5).

Hơn nữa, Đảng không thể chỉ lãnh đạo chính trị chung chung, không chịu trách nhiệm gì trước Nhân dân và dân tộc, mà Đảng phải giữ cho được vai trò là đảng cầm quyền, phải lo những việc lớn từ việc phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến những vấn đề nhỏ nhất như “tương, cà, mắm, muối”. Nghĩa là, khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng không chỉ đại diện cho lợi ích giai cấp mình - giai cấp công nhân mà còn là đại biểu cho lợi ích toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Vì vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là yêu cầu hàng đầu đối với Đảng để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Tuy nhiên, khi là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Đây là điều rất khác với sự lãnh đạo của Đảng khi chưa có chính quyền. Nói cách khác, khi có chính quyền Đảng không chỉ đề cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng mà còn phải thể hiện được vị thế cầm quyền. Do đó, tại Đại hội XIII, Đảng đã bổ sung, nhấn mạnh “năng lực cầm quyền” vào nội dung “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” để thành “nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng”(6). Đây là kỳ đại hội đầu tiên của Đảng đưa vấn đề “năng lực cầm quyền” bên cạnh yêu cầu về “năng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng”. Nói cách khác, Đại hội XIII không chỉ dừng lại ở vấn đề khẳng định “là đảng cầm quyền” như trước đó mà còn góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận - thực tiễn trong nhận thức về vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng. Nghĩa là, Đảng vừa phải đủ năng lực, sức chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; vừa phải đủ năng lực, bản lĩnh để thắng bệnh quyền lực; vừa phải không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng trong điều kiện mới. Đây là một bước tiến mới của nhận thức trong kết hợp hài hòa giữa năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền, giữa xây dựng với chỉnh đốn Ðảng; giữa xây dựng Ðảng với bảo vệ Ðảng trong điều kiện mới.

Một số giải pháp nâng cao vai trò cầm quyền của Đảng

Thứ nhất, muốn thực hiện tốt vai trò cầm quyền Đảng phải xây dựng được một đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo và khoa học, chính sách lớn về đối nội và đối ngoại. Muốn có đường lối đúng phải dựa trên cơ sở lý luận của một hệ tư tưởng nhất định. Hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ tư tưởng Mác - Lênin, tuy nhiên hệ tư tưởng đó phải được cụ thể hóa, linh hoạt theo điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Nghĩa là, trên từng bước đi lịch sử, từng giai đoạn cách mạng, từng địa phương, từng ngành, từng cơ quan, đơn vị cần phải có nhiệm vụ cụ thể, phù hợp. Nói cách khác, phương pháp, hình thức thực hiện có thể thay đổi cho phù hợp thực tiễn, nhưng mục tiêu, nguyên tắc chiến lược phải được giữ vững, không được thay đổi hay dao động. Chúng ta đổi mới không phải thay đổi mục tiêu đường lối CNXH mà phải sáng tạo, tìm ra những hình thức, phương pháp và bước đi phù hợp.

Mặt khác, khi đề ra được đường lối đúng, Đảng lại phải lãnh đạo đưa cương lĩnh, đường lối vào nội dung hoạt động của Nhà nước, tức là cương lĩnh, đường lối phải được thể chế hóa thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói cách khác Đảng phải xác lập quyền lực của mình đối với Nhà nước theo quy định của pháp luật, quy trình pháp lý và tuân thủ quy luật khách quan. Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ công chức, viên chức”(7). Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước; có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Đồng thời “xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền lợi và lợi ích chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm”(8)

Thứ hai, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, trong đó có nội dung quan trọng là Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước. Nếu làm tốt điều này sẽ bảo đảm thực hiện đúng định hướng chính trị, phát huy được tính chủ động, sáng tạo và nhân lên thành sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân tộc. Đây là nội dung hết sức quan trọng của việc xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng CNXH, vừa bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy vai trò quản lý của Nhà nước. Để thực hiện tốt điều này, Đảng cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để phát triển, hoàn chỉnh và cụ thể hóa hơn nữa đường lối chính trị của Đảng, không ngừng sửa đổi khi có những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch và nghị quyết. Đồng thời, khi phát triển từ giai đoạn này lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết của người lãnh đạo và chiến sỹ cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là, đề ra nhiệm vụ mới, phương pháp mới phù hợp với tình hình mới của từng thời kỳ cách mạng mới. Đặc biệt là quan tâm đổi mới việc ra nghị quyết sao cho không bị chồng chéo, trùng lặp; đổi mới việc học nghị quyết sao cho thiết thực; đổi mới chỉ đạo thực hiện nghị quyết sao cho nghị quyết nhanh chóng được thể chế hóa thành các chế tài, kế hoạch, chính sách cụ thể, đúng nhiệm vụ trọng tâm và phù hợp với thực tiễn.

Thứ ba, Đảng phải chăm lo công tác cán bộ, coi đó là vấn đề “then chốt của then chốt”, nghĩa là, nếu xây dựng Ðảng là then chốt thì trong xây dựng Ðảng lấy công tác cán bộ là then chốt. Bởi vì cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng và công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Mặt khác, là đảng duy nhất cầm quyền, đảng viên của Đảng nắm hầu hết các chức vụ chủ chốt trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu đạo đức và năng lực của những cán bộ, đảng viên ấy sa sút thì chính họ là một trong những nguyên nhân lớn nhất làm xói mòn nền tảng đạo đức xã hội, làm vô hiệu hóa quyền uy pháp luật và làm mất đi vị thế cầm quyền của Đảng. Vì vậy, Đảng phải cử được đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín nắm giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện tốt điều này, Đảng phải làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ; chú trọng đổi mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân chủ, tập thể, tập trung thống nhất và quy trình chặt chẽ. Trong việc sử dụng cán bộ cần quan tâm theo đúng tiêu chuẩn, sở trường, bổ nhiệm đúng lúc, giao việc đúng tầm, có cơ chế chính sách trọng dụng và đãi ngộ nhân tài. Xử lý nghiêm minh và có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những cán bộ vi phạm kỷ luật, pháp luật, đạo đức công vụ, không hoàn thành nhiệm vụ, không còn uy tín đối với nhân dân.

Thứ tư, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Xác định “dân làm gốc” là quy luật tồn tại và phát triển, nhân tố tạo ra sức mạnh để khẳng định vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền của Đảng. Hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Đảng đã được Nhân dân đồng hành, một lòng theo Đảng. Nhờ đó Đảng có đủ khả năng và sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù và từng bước nâng tầm vị thế của dân tộc. Vì vậy, công tác quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc là vấn đề hết sức quan trọng, động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII đã xác định: phát huy rộng rãi quyền làm chủ và vai trò chủ thể của Nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của Nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội (9). Để thực hiện tốt mục tiêu này, các cấp, các ngành phải hết sức quan tâm tham mưu, đề xuất những chủ chủ trương, chính sách hợp lòng dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhân dân; tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; làm tốt công tác tư tưởng chính trị trong Nhân dân, gần dân, trọng dân, tin dân; khích lệ nhân dân lao động, sáng tạo đóng góp thiết thực cho công cuộc đổi mới nói riêng và xây dựng, phát triển đất nước  nói chung./.

---------------------------

 (1) Đảng Công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII,

      IX), Nxb CTQG, HN, 2005, Tr.30.

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG,  HN.2011, tr . 88

(3), (5), (7), (8), (9) Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ

     XIII, tập 1, Nxb CTQG, HN 2021, tr.77-78, tr.93, tr.118, tr.175, tr.118

(4) Nguyễn Phú Trọng, Xây dựng, chỉnh đốn Đảng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (xuất  

      bản lần thứ hai có bổ sung, điều chỉnh”, Nxb CTQG, HN 2012, tr.382

(6) Hội đồng Lý luận Trung ương, Những điểm mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng,

      Nxb.CTQG, HN 2021, tr.27

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất