Tầm nhìn chiến lược, giải pháp đột phá đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới
          


Bài 1: Tầm nhìn chiến lược, khát vọng vươn tới tương lai rạng rỡ

Những thành tựu, bài học kinh nghiệm trong gần 35 năm đổi mới và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra thách thức, thời cơ mới để Việt Nam “đi tắt đón đầu”, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đại hội XIII cần có tầm nhìn xa hơn đến giữa thế kỷ XXI, thể hiện khát vọng và ý chí vươn tới tương lai rạng rỡ của đất nước và toàn dân tộc.

Trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng” khẳng định, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII đã và đang được chuẩn bị một cách rất công phu, bài bản, chu đáo; quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển; trên cơ sở phát huy tối đa dân chủ, lắng nghe các ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân; lựa chọn, chắt lọc, tham khảo các đề xuất tâm huyết, trách nhiệm; kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.

Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Đại hội XIII cần có tầm nhìn xa hơn đến giữa thế kỷ XXI, thể hiện khát vọng và ý chí vươn tới tương lai rạng rỡ của đất nước và toàn dân tộc với các mục tiêu cụ thể hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cho rằng, Đại hội XIII tiến hành vào đầu năm 2021, rất gần những mốc son lịch sử vĩ đại của dân tộc: 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Một thế kỷ là thời gian đủ để nhân dân suy ngẫm, đánh giá, khẳng định những giá trị lịch sử vĩ đại của một dân tộc, khơi dậy lòng tự hào của dân tộc và tin tưởng, tự hào, tiếp bước trên những chặng đường mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Qua những bước thăng trầm của những năm đầu xây dựng CNXH, mô hình ở một số nước đã sụp đổ, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước từ Đại hội VI. Sau 35 năm, những chủ trương, đường lối của Đảng có những bước đột phá. Đại hội Đảng lần này không chỉ tổng kết nhiệm kỳ mà còn nhìn lại, đánh giá chung về 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung, phát triển năm 2011), 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020), 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước 1991, 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới.

“Đây là thời điểm thích hợp, thời gian đủ để đánh giá những giá trị lý luận của đường lối đổi mới, khẳng định con đường đúng đắn của Đảng và Bác Hồ đã chọn. Qua đó mới thấy hết giá trị của đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt được, khơi dậy lòng tự hào dân tộc”, ông Tuấn nêu ý kiến.

Theo ông Nguyễn Minh Tuấn, tình hình thế giới sẽ tiếp tục diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Những năm tới, Việt Nam hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, thực hiện đầy đủ các cam kết khi tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, do đó sẽ gặp phải nhiều thách thức. Vì vậy, đường lối của Đảng phải vươn tới “tầm nhìn xa hơn đến giữa thế kỷ XXI”, không chỉ là năm năm, 10 năm.

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định, qua 35 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu nổi bật, tạo nền tảng vững chắc để đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới. Hệ thống chính trị ngày càng hoàn thiện, vững mạnh, từ đó tạo được sự ổn định về chính trị, tạo động lực cho sự phát triển mạnh mẽ của đất nước.


Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2010-2019


Thu nhập bình quân đầu người 

Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế. Năm 2020, tổng GDP của Việt Nam ước đạt 300 tỷ USD trên 100 triệu dân, thu nhập bình quân trên đầu người đạt khoảng 3.000 USD/người/năm. Như vậy, thu nhập bình quân sau 35 năm đổi mới đã tăng gấp 10 lần so với thời kỳ bắt đầu đổi mới, và số dân tăng gấp hai lần. Động lực thúc đẩy đổi mới về kinh tế thắng lợi trong giai đoạn qua chính là từ đường lối đổi mới đúng đắn từ Đại hội VI của Đảng, tiếp tục được bổ sung tại các kỳ đại hội tiếp theo. Lực lượng sản xuất được giải phóng trở thành động lực quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển trong suốt gần 35 năm.

Theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, bên cạnh thành tựu về kinh tế, những vấn đề về xã hội, văn hoá cũng được giải quyết rất căn bản. Hệ thống các chính sách xã hội hướng tới nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, trong đó phải kể đến một số các chương trình lớn về xoá đói, giảm nghèo, an sinh xã hội... Uy tín quốc tế và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, được bạn bè quốc tế thừa nhận.

“Những thành tựu này có thể gói gọn lại trong câu nói của đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”. Đây chính là cơ sở quan trọng để thúc đẩy đất nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nhận xét.

Đến năm 2030, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, các văn kiện của Đảng cần làm rõ những tiêu chí: nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại và trong những tiêu chí ấy phải có tiêu chí về thu nhập bình quân đầu người.

         


Trích lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng 

“Theo quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nêu trong bài viết thì năm 2030 chúng ta có thu nhập trung bình cao, do đó phải xác định thế nào là thu nhập trung bình cao. Việc này đòi hỏi cố gắng rất lớn”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc chia sẻ.

Dù đạt được những kết quả rất đáng tự hào, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng, sau 4 năm đầu của nhiệm kỳ liên tục tăng trưởng cao, năm 2020 suy giảm mạnh, chất lượng còn thấp và đang phải đối mặt với nhiều tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19.

GS, TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐHKTQD cho rằng, khi so sánh với các mô hình phát triển kinh tế thành công trong khu vực, ba chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh hiệu quả của nền kinh tế (hiệu quả đầu tư ICOR, năng suất lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp TFP) của Việt Nam có sự cải thiện trong thời gian gần đây, nhưng vẫn đang ở mức thấp so với các nước. Nền kinh tế vẫn có nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và tụt hậu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Về sức cạnh tranh của nền kinh tế, mặc dù có sự cải thiện khá ấn tượng là 10 bậc vào năm 2019, Việt Nam vẫn chỉ đứng khoảng giữa bảng xếp hạng theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới. Những chỉ số quan trọng như năng lực sáng tạo, ứng dụng CNTT, kỹ năng, sự năng động trong kinh doanh hay thị trường sản phẩm... của Việt Nam đều thấp, cho thấy các động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo để bắt kịp xu thế 4.0 còn yếu, chưa hiệu quả. Thế mạnh nhân công giá rẻ cùng các nguồn lực sản xuất khác như đất đai, cơ sở hạ tầng với chi phí thấp không còn phù hợp trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đã có những thay đổi và bản thân nền kinh tế Việt Nam cũng đã bước vào một giai đoạn phát triển mới.

Với vấn đề nêu trên, ông Mai Liêm Trực, nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính Viễn thông cho rằng, Đại hội VI năm 1986 đã tạo bước ngoặt trong phát triển đất nước, từ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường và từ đây đất nước phát triển mạnh mẽ. Trong 35 năm đổi mới vừa qua, cũng có thời điểm đã có những ý kiến, đề xuất Việt Nam phải đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới, tạo sự bứt phá cho đất nước.

          

Trích lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

“Lần này, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo cần chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, tôi cho rằng thời điểm đã rất chín muồi và thời cơ rất tốt để thực hiện việc này. Việt Nam không thể chậm trễ trước những thời cơ mới để đưa đất nước phát triển bứt phá. Nếu không, Việt Nam sẽ nằm trong bẫy thu nhập trung bình 15-20 năm nữa, không có gì nghi ngờ về điều đó”, ông Mai Liêm Trực nói.

Theo ông Mai Liêm Trực, thời cơ đồng thời là thách thức lớn nhất cho Việt Nam là có nắm bắt được để triển khai thành công cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong vòng 20-30 năm nữa? Việt Nam muốn tạo bước ngoặt phát triển, không có cách nào khác là tận dụng tối đa cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trên thế giới đã có những nước trong vòng 25-30 năm từ nước phát triển trung bình thấp trở thành nước công nghiệp tiên tiến.

“Các cuộc cách mạng công nghiệp trước, do vấn đề về lịch sử, Việt Nam đã bỏ qua, đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba thì do chiến tranh triền miên chúng ta bắt đầu đổi mới từ năm 1986 nhưng cũng là giai đoạn cuối của của cách mạng công nghiệp. Thời điểm này là một thời điểm hiếm có để kích hoạt cho bước ngoặt ấy xảy ra, là thời điểm quý giá để kích hoạt cho một sự đổi mới, đột phá, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, ông Mai Liêm Trực nói.

Trao đổi với Báo Nhân Dân điện tử, ông Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, sau gần 35 năm kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã chuyển từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN theo phương châm “đi từng bước”.

“So với các nước thực hiện chuyển đổi từ mô hình kế hoạch hoá tập trung sang các mô hình kinh tế thị trường, chúng ta có thể khẳng định là đã thành công vì các lý do sau. Thứ nhất, tạo được sự tăng trưởng đột phá về kinh tế. Thứ hai: giữ được ổn định xã hội. Thứ ba: bảo đảm đời sống cho người dân, an sinh xã hội”, ông Kiên nêu quan điểm.

Theo ông Kiên, Đại hội XIII có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì diễn ra trong thời điểm bối cảnh thế giới và trong nước đang có sự thay đổi đột biến cả về chất và lượng, đặc biệt được thúc đẩy rất nhanh trong năm 2020 do tác động của Covid-19. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra sâu rộng trên toàn thế giới, tạo ra nhiều thách thức và cơ hội đan xen. Đây là thời cơ để chúng ta bước nhanh vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền kinh tế số. Chưa bao giờ đòi hỏi phải thay đổi phương thức quản trị nhà nước lại mạnh mẽ như bây giờ. Đây là thời điểm sống còn để Việt Nam đổi mới, tăng năng suất lao động. Nếu Việt Nam không chớp được thời cơ này sẽ bị tụt hậu. Tuy nhiên, nếu tận dụng tốt thì đây chính là cơ hội để “đi tắt, đón đầu”. 

Việt Nam đã có những bài học “đi tắt, đón đầu” rất thành công như trong lĩnh vực viễn thông. Việt Nam đã chuyển đổi thành công từ công nghệ analog sang công nghệ số từ rất sớm, tiếp đó là phát triển điện thoại di động... Chính sự thành công trong lĩnh vực viễn thông và internet tạo cơ sở và làm tiền đề cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vào loại tốt trong khu vực ở những năm đầu thế kỷ XXI.

“Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số đã được thúc đẩy rất nhanh trong năm 2020 do tác động của Covid-19. Tại Việt Nam, có những vấn đề như thanh toán điện tử chúng ta dự kiến triển khai trong vài năm thì chỉ có 4 tháng đã hoàn thành”, ông Kiên nói.

           


Theo ông Mai Liêm Trực, để hiện thực hóa khát vọng trở thành nước phát triển, cần đổi mới mạnh mẽ tư duy, mô hình tăng trưởng trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học công nghệ. Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng. Đây là mô hình tăng trưởng phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Sự thành công hay không thành công của Việt Nam là có nắm được cơ hội và thách thức để triển khai cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong vòng 20-30 năm hay không. Cần đổi mới tư duy, từ đổi mới tư duy sẽ có thay đổi mô hình tăng trưởng, đột phá về thể chế, khơi dậy tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư quan trọng nhất là vấn đề hạ tầng dữ liệu. Không có hạ tầng dữ liệu không có cách mạng 4.0 và không có chuyển đổi số, do đó Việt Nam cần tạo đột phá về hạ tầng dữ liệu.

Theo GS, TS Trần Văn Phòng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, phải đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng xuất phát và dựa trên quan điểm nhân dân là trung tâm, mục tiêu vì nhân dân, cho nhân dân và do nhân dân, không để người dân nào bị bỏ lại phía sau. Với quan điểm, mục tiêu như vậy đã tạo nên sức mạnh thống nhất trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19. Nếu biết phát huy tốt ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc thì đây cũng là một nguồn nội lực xã hội phát triển quan trọng trong thời kỳ mới.

“Chúng ta phải làm thế nào để ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc trở thành ý chí, khát vọng phát triển của mỗi một người con đất Việt. Trước hết, mỗi đồng chí đảng viên hãy gương mẫu, lan tỏa, nhân lên ý chí, khát vọng phát triển của dân tộc”, GS, TS Trần Văn Phòng nêu ý kiến.

         

Trích lời Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng

Theo PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, khi bắt đầu tiến hành đổi mới năm 1986, chúng ta cũng phải đi tìm những động lực phát triển, đồng thời tìm cách tháo gỡ những ách tắc trong cơ chế quản lý, tháo gỡ điểm nghẽn để cho kinh tế phát triển. Khi đó, chúng ta lấy lợi ích kinh tế làm động lực. Thí dụ, khi đó chúng ta có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (1988) chủ trương giao ruộng cho các hộ nông dân tự quản lý, tự sản xuất. Điều này tạo ra động lực lớn, làm cho người dân quan tâm tới sản xuất, quan tâm tới lợi ích kinh tế, quan tâm tới năng suất lao động. Ngay trong năm tiếp theo, Việt Nam đã có thể xuất khẩu lương thực. Đó chính là chặng đường mà chúng ta đã trải qua và tìm ra động lực phát triển.

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng, để thực hiện được mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, chúng ta cũng phải tìm ra động lực để phát triển. Động lực chính cho sự phát triển vẫn là con người là nhân tố trung tâm. Theo đó, xác định tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ rất cao. Đây cũng chính là khâu đột phá mà Đại hội XI và Đại hội XII cũng đã xác định là phải có nguồn nhân lực có chất lượng cao.

“Từ chính nguồn nhân lực chất lượng cao này chúng ta mới có thể tạo ra bước phát triển mạnh hơn nữa. Nếu vẫn chỉ bằng lòng với những thành tựu đạt được, cộng với nguồn nhân lực như hiện nay thì chúng ta vẫn chỉ dậm chân tại chỗ là nước có năng suất lao động thấp trong khu vực và trên thế giới. Do đó, tôi cho rằng trước hết chúng ta phải tập trung đào tạo nguồn nhân lực”, ông Phúc nói.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần có một động lực nữa đó chính là khoa học – công nghệ. Chúng ta phải nắm vững được và phải làm chủ được khoa học công nghệ, đặc biệt là những thành tựu từ Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chúng ta mới có thể tạo ra được năng suất lao động cao từ sự kết hợp giữa con người với khoa học-công nghệ cao.

Đổi mới mô hình tăng trưởng là vấn đề mà Đại hội XI và Đại hội XII đã nêu  nhưng chúng ta làm chưa thật sự hiệu quả. Đại hội XIII cần tập trung chỉ đạo đổi mới mô hình tăng trưởng, chúng ta đã tăng trưởng rộng rồi nhưng bây giờ cần tăng trưởng theo chiều sâu, để cho nền kinh tế của chúng ta thật sự có chất lượng, có hiệu quả, có năng suất. Bên cạnh việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cũng cần phải cơ cấu lại nền kinh tế, phải chỉ rõ công nghiệp phải như thế nào, nông nghiệp thế nào, thương mại – dịch vụ thế nào.

“Nói tóm lại, chúng ta phải tìm ra được động lực cho sự phát triển trong giai đoạn mới. Trước đây động lực là thế, thì giờ động lực là gì? Đây là vấn đề cần thảo luận kỹ để quyết định cho rõ. Một vấn đề lớn nữa là công tác cán bộ. Muốn trở thành nước phát triển thì phải có cán bộ đủ năng lực, đủ tầm nhìn”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nhấn mạnh.

         

Bài 2: Đổi mới mạnh mẽ tư duy, mô hình tăng trưởng

Hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, Việt Nam cần tạo đột phá thực sự về thể chế để huy động quản lý hiệu quả nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, tạo thuận lợi cho kinh tế tư nhân. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, tạo bước chuyển căn bản nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng trên cơ sở sử dụng khoa học công nghệ.

Trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng” đánh giá, trong những năm tới, bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi phức tạp, nhanh chóng, khó lường. Dưới tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt, cả về y tế, kinh tế, xã hội và quản trị. Cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mở ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia.

Đổi mới mô hình tăng trưởng

Ông Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho biết, một trong những thách thức lớn nhất là bối cảnh kinh tế, chính trị quốc tế thay đổi và không còn những điều kiện thuận lợi như thời điểm giữa thế kỷ XX, khi các nước như Hàn Quốc bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá, trở thành nước phát triển.

Theo ông Kiên, việc thay đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam diễn ra tương đối chậm có nguyên nhân là Việt Nam bắt đầu công nghiệp hóa với lực lượng lao động chiếm hơn 80% là nông dân. Trong khi các nước tư bản đã phải mất hàng trăm năm để thực hiện chuyển đổi và tích luỹ lực lượng lao động trình độ cao để tiến hành công nghiệp hoá.

Hiện nay, công cuộc toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã được định hình dẫn đến việc cạnh tranh không chỉ còn mang tính khu vực, mà còn trên phạm vi toàn thế giới. Để sản phẩm dệt may vào được thị trường Mỹ hay thị trường EU, chúng ta không chỉ phải cạnh tranh với hàng hoá của Hàn Quốc, Nhật Bản... mà thậm chí còn phải cạnh tranh với hàng hoá của Bangladesh, Tunisia hay Thổ Nhĩ Kỳ...

GS, TS Trần Thọ Đạt, Chủ tịch Hội đồng Trường đại học Kinh tế quốc dân cho rằng, chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần được xác định là một quá trình thường xuyên để nền kinh tế luôn năng động, liên tục có cải thiện về năng lực cạnh tranh, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài, tự nội tại nền kinh tế luôn tạo ra được những “dư địa” tăng trưởng mới.

Tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua đã cao hơn giai đoạn trước nhưng chưa đủ để thu hẹp khoảng cách về thu nhập với các nước trong khu vực, tăng năng suất lao động chủ yếu vẫn dựa vào tăng vốn đầu tư và sử sụng lao động chi phí thấp.

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào đầu tư nước ngoài, đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp và tăng trưởng năng suất lao động chưa bền vững.

Hơn nữa, đối với các ngành được coi là thế mạnh của Việt Nam hiện nay (điện tử, dệt may, da giày, du lịch, thủy sản), chúng ta vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp, năng suất lao động thấp.

Theo ông Đạt, các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế hiện đại và thực tiễn tăng trưởng của các con Rồng Châu Á cho thấy mỗi nước có con đường và mô hình riêng để hiện đại hóa nền kinh tế, đạt mức tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm.

Có nước áp dụng chiến lược thay thế nhập khẩu hoặc hướng đến xuất khẩu, vai trò của Nhà nước trong quá trình này cũng rất khác nhau và không giống nhau trong các giai đoạn phát triển của từng nước.

Tuy nhiên, nhìn chung đó là quá trình chuyển từ tăng trưởng dựa chủ yếu vào các yếu tố đầu vào truyền thống là vốn, lao động sang sử dụng ngày càng nhiều các yếu tố như vốn con người, ứng dụng tiến bộ khoa hoc công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Trong quá trình đổi mới vừa qua ở nước ta, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cấu trúc của nền kinh tế, dịch chuyển hàng triệu người từ khu vực nông nghiệp tự cấp, tự túc sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ, tạo ra sự tăng trưởng về năng suất lao động. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện tại vẫn chỉ tương đương một số quốc gia ASEAN cách đây vài thập kỷ.

Trong quá trình tăng trưởng này, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Indonesia, Thái Lan và Malaysia diễn ra nhanh hơn Việt Nam và nếu không bắt kịp với quá trình dịch chuyển, kinh tế Việt Nam có khả năng sẽ tụt hậu nữa so với thế giới.

Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế chịu chi phối bởi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, trong giai đoạn 2010-2018, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt 6,08%/năm thì tăng trưởng khu vực FDI là 9,18%/năm. Hiện nay, khu vực FDI đóng góp vào tăng GDP khoảng 40%, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu hơn 70%. Tuy nhiên, sự lan toả của của khu vực FDI đến các khu vực khác trong những năm qua rất hạn chế.

Thời điểm chín muồi và yêu cầu đổi mới tư duy

Bàn về đổi mới tư duy, ông Mai Liêm Trực chia sẻ lại câu chuyện về Tổng Bí thư Trường Chinh gắn với Đại hội VI đã tạo ra một bước ngoặt phát triển, đưa nền kinh tế chúng ta từ tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường và từ đây đất nước đổi mới.

Ông Trực nhớ lại bối cảnh năm 1986, 10 năm sau chiến tranh, đất nước bị kiệt quệ và khủng hoảng toàn diện cả kinh tế và xã hội. Cơm không đủ ăn, quần áo không đủ mặc. Sau khi đi thực tế nhận ra cơ chế quan liêu bao cấp, bảo thủ đã kìm hãm sự phát triển của đất nước, Tổng Bí thư Trường Chinh đã thay đổi nhận thức, yêu cầu bỏ cương lĩnh ban đầu (cũng là do Tổng Bí thư Trường Chinh chỉ đạo) và chỉ đạo viết lại cương lĩnh của Đại hội VI.

“Khi đất nước ở giai đoạn khó khăn như vậy, những người lãnh đạo cao nhất của Đảng đã nhận thức ra những sai lầm trong đường lối quản lý và chuyển đổi. Đấy là một sự dũng cảm của một vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ. Và điều đó đã tạo nên bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước mà tất cả chúng ta đều thấy”, ông Trực nói.

Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã gặt hái được rất nhiều thành tựu nhưng chúng ta cũng còn nhiều hạn chế, bỏ lỡ không ít cơ hội để phát triển đất nước. Thời cơ tốt nhất đang đến với Việt Nam. Đó chính là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và thách thức lớn nhất là chúng ta có nắm bắt được để thực hiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên đất nước hay không.

Nếu làm được thì đạt được những mục tiêu đề ra, còn không thì chắc chắn chúng ta sẽ chỉ ở trong sự phát triển cầm chừng và khó thoát ra được bẫy thu nhập trung bình.

Nhớ lại câu chuyện về đổi mới tư duy đã giúp ngành viễn thông bứt phá vượt bậc được thế giới ghi nhận. Ông Trực chia sẻ thêm, ngay những năm đầu sau Đại hội VI, ngành viễn thông đã có quyết định chiến lược, đột phá và cho đến bây giờ vẫn đúng. Đó là sau khi nắm bắt được xu thế công nghệ của thế giới thì quyết định đi thẳng vào công nghệ số từ năm 1987-1988, không qua giai đoạn công nghệ analog, trong bối cảnh 95% mạng viễn thông trên thế giới thời đó là analog, chỉ một số nước có tổng đài điện tử kỹ thuật số.

“Tháng 10-1990, chúng tôi khánh thành tổng đài kỹ thuật số đầu tiên, qua một năm chuyển đổi tất cả các tổng đài analog sang mạng điện thoại công nghệ số. Cũng như vậy, khi mạng di động của thế giới gần như 100% là analog (mạng 1G), công nghệ 2G khi ấy mới đang thí nghiệm thị trường. Công nghệ 2G đầu tiên mới được thương mại hóa ở Phần Lan năm 1991 thì năm 1992 Tổng cục Bưu điện quyết định làm luôn công nghệ số 2G và năm 1993 đưa vào luôn Việt Nam. Đó cũng là quyết định chiến lược và gây tranh cãi nhưng chúng tôi làm có bước đi, có lộ trình, có ưu tiên”, ông Trực kể.

Theo ông, mô hình tăng trưởng mới, trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến bộ khoa học công nghệ là một mô hình tốt và không có mô hình khác, vì mô hình ấy phù hợp với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thành công hay không, là Việt Nam có nắm được cơ hội và thách thức để triển khai cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong vòng 20-30 năm hay không?

Theo GS, TS Trần Thọ Đạt, phần lớn doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đang sử dụng công nghệ tụt hậu từ hai đến ba thế hệ so với mức trung bình của thế giới. Đầu tư R&D (Nghiên cứu và phát triển) ở cả phạm vi quốc gia và khu vực doanh nghiệp vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời lại có xu hướng giảm dần về tỷ lệ.

Ngay cả FDI - vốn được coi là nguồn đầu tư mang lại yếu tố học hỏi về mặt công nghệ, tác phong làm việc, kỹ năng và tay nghề chuyên môn - thực tế không mang lại nhiều hiệu quả do các địa phương quá chú trọng vào thu hút số lượng trong khi xem nhẹ chất lượng. Tính chất của dòng vốn đầu tư này vẫn chủ yếu là gia công và khai thác tài nguyên. Hơn thế, mối liên kết yếu ớt giữa hai khu vực doanh nghiệp trong nước và nước ngoài cũng cản trở sự nắm bắt cơ hội nâng cao năng lực công nghệ.

Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, khai thác các nguồn lực sẵn có, không có những đòi hỏi khắt khe về trình độ và ý thức người lao động, đã khiến cho chúng ta chưa học hỏi và cải thiện được nhiều về năng lực quản trị, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc của các doanh nghiệp trong nước để giúp Việt Nam tránh được “bẫy gia công lắp ráp” (một mức thấp của bẫy thu nhập trung bình).

Hơn nữa, dù đã được ưu tiên phát triển nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn chỉ đứng ở nửa sau trên bảng xếp hạng quốc tế các chỉ số năng lực cạnh tranh. Trên thực tế, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều mặt hạn chế, chưa đồng bộ, hiệu quả kết nối và chất lượng chưa cao. Quy hoạch kết cấu hạ tầng, nhất là ở các đô thị lớn chưa đáp ứng yêu cầu. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, chưa đáp ứng cao yêu cầu phát triển để tiến tới mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Do vậy, Đảng và Nhà nước đã luôn quan tâm, sớm có nhiều chủ trương, giải pháp thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển của những ngành mới, lĩnh vực mới, nhất là kinh tế số, xã hội số và chính phủ số để làm cơ sở duy trì tăng trưởng cao trong một thời gian dài.

Trong vai trò dẫn dắt phát triển kinh tế số, có hai nhiệm vụ quan trọng là chiến lược phát triển kinh tế số và quản lý nhà nước về kinh tế số. Nhà nước cần là một bên tham gia “chủ động và đi đầu”, một người dùng tiên phong trong nền kinh tế số quốc gia. Chúng ta cần có quyết tâm và nỗ lực cao hơn trong xây dựng chính quyền điện tử, cải tiến quy trình nghiệp vụ, bồi dưỡng năng lực chuyên môn “tinh thông nghiệp vụ” và phẩm chất đạo đức “tận tâm phục vụ nhân dân” đối với công chức.

Việt Nam với một nền kinh tế năng động và dễ thích ứng và với lợi thế của người đi sau sẽ có cơ hội “đi tắt, đón đầu” trong việc chuyển đổi thành công từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số.

Cải cách hiệu quả kinh tế trong nước, thu hút FDI có chất lượng cao

Theo GS, TS Trần Thọ Đạt, đối với doanh nghiệp nhà nước, quá trình cổ phần hóa diễn ra rất chậm, cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước ít được đổi mới, chưa phù hợp các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, tính công khai, minh bạch còn hạn chế.

Khu vực doanh nghiệp nhà nước nhìn chung hưởng nhiều ưu đãi hơn, đặc biệt trong việc tiếp cận đất đai và vốn, những hiệu quả sử dụng thấp. Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm, và vẫn tiếp tục là những lực cản đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong các lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước đang chi phối, chiếm ưu thế.

Do vậy, để nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, cần thúc đẩy việc thực thi quản trị theo chuẩn mực quốc tế, đẩy mạnh cơ cấu lại, cổ phần hóa, thoái vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp nhà nước.

Cần đổi mới cách thức thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nhất là việc xác định giá trị quyền sử dụng đất, tài sản cố định, thương hiệu của doanh nghiệp.

Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn tập trung nên đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia, hình thành và phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành then chốt.

Khu vực doanh nghiệp tư nhân, dù được thừa nhận là động lực của nền kinh tế nhưng hiện tại chủ yếu vẫn có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, năng lực cạnh tranh không cao. Điều này chủ yếu do thể chế kinh tế thị trường chưa hoàn thiện, khiến khối doanh nghiệp tư nhân gặp nhiều rào cản gia nhập thị trường, cũng như hạn chế trong khả năng tiếp cận các nguồn lực.

Do vậy, chúng ta cần có một thể chế thực sự hiệu quả với vai trò kiến tạo và thực thi của Nhà nước. Cần khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế.

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cần chuyển trọng tâm chính sách thu hút, hợp tác từ số lượng sang chất lượng, khuyến khích các dự án có giá trị gia tăng cao, lấy hiệu quả và công nghệ sử dụng làm thước đo chủ yếu, chú trọng bảo vệ môi trường, hướng tới phát triển bền vững. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, quản trị hiện đại, kết nối với chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho rằng, Việt Nam đang phát triển kinh tế theo mô hình tam giác đều với một đỉnh là kinh tế, một đỉnh là an sinh xã hội và một đỉnh môi trường. Chúng ta kiên định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhưng vận dụng sáng tạo, phù hợp từng thời điểm, phù hợp các cam kết quốc tế.

Thí dụ ngành hàng không, việc xả khí thải động cơ gây ô nhiễm môi trường nhưng Việt Nam không sản xuất ra máy bay, nếu Vietnam Airlines nhập khẩu Boeing 787 đời mới, ít ô nhiễm thì được giảm thuế môi trường. Như vậy, chúng ta điều tiết bằng chính sách thuế.

Trong 10 năm tới, chúng ta không thể đi theo mô hình công nghiệp hóa cổ điển của các nước phát triển đã đi vì chúng ta không thể làm tốt bằng họ, thị trường họ đã chiếm lĩnh. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra một cách sâu rộng trên toàn thế giới tạo ra nhiều thách thức và cơ hội đan xen. Nếu chúng ta không chớp được thời cơ này thì sẽ bị tụt hậu. Tuy nhiên, nếu tận dụng tốt thì đây chính là cơ hội để chúng ta “đi tắt, đón đầu”.

Theo ông Kiên, Việt Nam cần đổi mới từ doanh nghiệp nhà nước đến quản trị doanh nghiệp nhà nước. Với nguồn lực 5,5 triệu tỷ đồng đang nắm giữ, đây là động lực để đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhà nước phải là người tiêu dùng lớn nhất, định hướng cho thị trường phát triển.

Doanh nghiệp nhà nước nên chia hai loại: loại thứ nhất hoạt động phi lợi nhuận, loại thứ hai là hoạt động bình đẳng như doanh nghiệp FDI. Loại thứ hai đóng góp cho Nhà nước cao hơn các doanh nghiệp tư nhân, FDI vì Nhà nước góp vốn chủ sở hữu.

Với doanh nghiệp FDI cần đẩy công nghiệp phụ trợ nội địa, có chiến lược nâng tỷ trọng sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị của họ. Dịch Covid-19 vừa qua đã khiến nhiều công ty toàn cầu nhận ra: một sản phẩm không chỉ sản xuất ở một quốc gia. Việt Nam có cơ hội thu hút làn sóng đầu tư từ các cường quốc trên thế giới.

Bài 3: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ

          

Hướng tới mục tiêu trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, công tác tổ chức, cán bộ phải là điểm đột phá, là "then chốt" của nhiệm vụ "then chốt”, phải hết sức chú trọng xây dựng và làm trong sạch đội ngũ cán bộ, nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

Trong bài viết quan trọng với tiêu đề "Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới", Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân”.

Trao đổi với Báo Nhân Dân điện tử, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) cho rằng, Việt Nam muốn trở thành nước phát triển thì phải có đội ngũ cán bộ đủ năng lực, đủ tầm nhìn. Đảng ta trong thời kỳ mới phải nâng cao chất lượng mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược.

Trước hết mỗi cán bộ, đảng viên cần phải đề cao trách nhiệm, phải làm hết trách nhiệm của mình trước Đảng, trước đất nước và nhân dân. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tự tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đối với cán bộ ở bất kỳ cấp nào, đặc biệt là cấp chiến lược thì phải “mẫu mực về đạo đức, tiêu biểu về trí tuệ, năng động và sáng tạo trong hành động, và uy tín trong Đảng, uy tín với nhân dân và thậm chí là quốc tế”.

Theo PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn, Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cán bộ cấp chiến lược phải là những người có năng lực nổi trội, không chỉ cần quyết tâm đổi mới mà phải có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược. Là những người đứng đầu các cơ quan lãnh đạo cao nhất của đất nước, đòi hỏi ở họ không chỉ có hoài bão, khát vọng đổi mới vì dân, vì nước, ý thức, trách nhiệm với vận mệnh, tương lai của dân tộc mà phải có kiến thức toàn diện để tham gia thảo luận, đóng góp, hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Trung ương.

Đồng thời, không chỉ đòi hỏi họ phải có năng lực tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách, nhiệm vụ của Đảng, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn mới ở lĩnh vực, địa bàn công tác được phân công mà cần phải có năng lực dự báo, xử lý, ứng phó kịp thời, hiệu quả những tình huống đột xuất, bất ngờ và khả năng làm việc độc lập – những tố chất, năng lực lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược.

Như vậy, bản lĩnh chính trị, kinh nghiệm thực tiễn, năng lực dự báo, khả năng đề xuất, tham gia quyết định chính sách lớn quan trọng có ý nghĩa sống còn của dân tộc, của đất nước đòi hỏi tầm nhìn của cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược.

PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn khẳng định, trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cán bộ luôn được xác định là “cái gốc của mọi công việc”, là “nhân tố quyết định thành bại của cách mạng” và do đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ luôn là khâu “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt” xây dựng Đảng.

“Là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cần những cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tâm, đủ tầm, nhất là tầm nhìn chiến lược để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”, ông Tuấn nhận định.

          

Trích phát biểu TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng

Khẳng định tầm quan trọng của công tác cán bộ, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc bày tỏ đồng tình cao với quan điểm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã nêu là phải kiên quyết không được đưa vào những kẻ cơ hội chính trị, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, hư hỏng, chạy chức, chạy quyền…

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng có thể coi những biểu hiện tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền…tất cả những thứ đó là bèo bọt, rác rưởi có thể làm nghẽn dòng chảy lịch sử. Do đó phải kiên quyết loại trừ. Và nếu loại trừ thành công thì khơi thông được dòng chảy của lịch sử, đồng thời cũng tạo ra được động lực của sự phát triển.

“Nếu làm công tác cán bộ được như thế, từ cấp cơ sở cho đến cấp cao, thì chúng ta sẽ đẩy lùi được tiêu cực. Tới đây, khi tiến hành Đại hội XIII của Đảng, nếu chúng ta thực hiện tốt công tác cán bộ thì tôi tin rằng nhất định Đảng ta sẽ mạnh lên rất nhiều để vững bước trong thời kỳ phát triển mới của đất nước”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc bày tỏ.

Theo PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn, công tác tổ chức cán bộ cần phải tiếp tục đổi mới và phải có giải pháp đổi mới mạnh mẽ, khả thi để khắc phục ngay những khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nay, nhất là khâu đánh giá cán bộ, luân chuyển cán bộ, bố trí cán bộ chủ chốt không phải người địa phương, kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền.

Đồng thời, có cơ chế để bảo vệ, khuyến khích cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và dám đột phá vì lợi ích chung. Khi đó sẽ xuất hiện nhiều hơn, rõ hơn cán bộ vì dân, vì nước, tạo tiền đề tiến tới việc bầu cử trực tiếp một số chức danh quản lý địa phương, đất nước.

“Những quy định về công tác cán bộ sẽ tiếp tục hoàn thiện để mọi tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu không thể không làm, không thể làm trái, không thể làm chậm đối với toàn Đảng, nhất là những đảng viên giữ các cương vị quan trọng trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, để nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ của cả hệ thống chính trị được nhận thức đúng và được thực thi nghiêm túc trên thực tế”, PGS, TS Nguyễn Minh Tuấn nhận định.

PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng, nhìn từ những vụ cán bộ cấp cao bị xử lý, kỷ luật trong nhiệm kỳ vừa qua thì đều có một điểm chung là vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong lãnh đạo, trong quản lý. Từ đó dẫn đến lộng quyền, lạm quyền, rồi sử dụng quyền lực để thu vén lợi ích cho cá nhân, cho bản thân mình. Có thể thấy lộng quyền, lạm quyền là những biểu hiện rất rõ trong những vụ bị xử lý, rồi thiếu ý thức trách nhiệm trong công việc.

“Qua những vụ việc cán bộ cấp cao mắc sai phạm gần đây cho thấy một thực tế là chúng ta kiểm soát quyền lực chưa thật sự tốt, chỉ đến khi sự việc vỡ lở ra rồi thì mới thấy là cả bí thư và chủ tịch địa phương đều cùng có sai phạm chẳng hạn”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc bày tỏ.

Để kiểm soát tốt quyền lực, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trước hết là phải siết chặt kỷ luật của Đảng.

“Vấn đề này trong Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI, khóa XII) đã nêu, trong phần giải pháp là phải siết chặt kỷ luật của Đảng. Điều này thể hiện rõ, thời gian qua nhờ siết chặt kỷ luật của Đảng mà chúng ta xử lý được những cán bộ như vậy. Tuy nhiên, theo tôi thì tới đây chúng ta phải siết chặt kỷ luật này mạnh mẽ hơn nữa, và siết chặt kỷ luật phải từ chính trong nội bộ của Đảng”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nhận định.

“Hiện nay có nhiều vụ việc không phải trong tổ chức đảng phát hiện và xử lý, mà thường là cấp trên phát hiện cấp dưới. Vừa rồi Ủy ban Kiểm tra T.Ư phát hiện nhiều vấn đề, nhiều vấn đề lại do báo chí phát hiện…”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nêu vấn đề.

Do đó, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng giải pháp siết chặt kỷ luật cần thực hiện từ chính trong nội bộ của Đảng, trong tổ chức đảng. Nếu chúng ta thực hiện tốt các giải pháp mà các Nghị quyết T.Ư 4 nêu thì có thể kiểm soát tốt quyền lực.

          

Trích phát biểu của TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng 

Bên cạnh giải pháp siết chặt kỷ luật của Đảng, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc cho rằng “pháp luật phải nghiêm” vì chúng ta thực hiện Nhà nước pháp quyền XHCN và có hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh.

“Qua nghiên cứu, tôi thấy chưa bao giờ chúng ta có đầy đủ hệ thống pháp luật như bây giờ, từ dân sự đến hình sự rồi từng lĩnh vực một đều có hệ thống pháp luật rất là tốt. Vừa rồi, qua theo dõi, tôi thấy Quốc hội giám sát vấn đề này (kiểm soát quyền lực) rất tích cực, và Chính phủ trong thực thi cũng đã rất quan tâm tới điều này. Như vậy, một mặt chúng ta cần siết chặt kỷ luật của Đảng, mặt khác cần đồng thời siết chặt kỷ cương, phép nước, để kiểm soát quyền lực cho thật tốt”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nhận định.

Ngoài ra, chúng ta cần phải biết lắng nghe từ nhiều phía để hiểu cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, chúng ta cần chú ý lắng nghe hơn những ý kiến của nhân dân, thực hiện tốt hơn công tác phát huy dân chủ ở cơ sở. Đồng thời, phải tăng cường, phát huy vai trò một cách đồng bộ hệ thống kiểm tra Đảng, thanh tra chính quyền; hệ thống bảo vệ, thực thi pháp luật từ viện kiểm sát, tòa án…

“Cuối cùng, cần phải lắng nghe từ các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí. Đây là lực lượng vừa rồi có đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhiều biểu hiện chạy chức, chạy quyền, góp phần lành mạnh hoá đời sống của nhân dân và cả trong Đảng. Tôi cho rằng nếu chúng ta thực hiện đồng bộ các giải pháp trên thì nhất định kiểm soát được quyền lực, chống được chạy chức, chạy quyền”, PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc nêu quan điểm.

                



Theo đồng chí Lê Vĩnh Tân, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Nội vụ, bên cạnh sự đồng tình và ủng hộ, trong nhân dân vẫn còn băn khoăn, lo lắng, thậm chí bức xúc về những lời nói, việc làm chưa tốt của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trước hết, những băn khoăn, lo lắng này là hoàn toàn chính đáng. Ðội ngũ cán bộ, đảng viên là lực lượng nòng cốt, đông đảo nhất trong bộ máy Ðảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, là "công bộc của dân", "đày tớ của dân" như Bác Hồ đã nhiều lần nhấn mạnh. Vì thế, theo quy định của Ðảng và Nhà nước thì nhân dân có quyền góp ý, có quyền phê bình nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên có những lời nói, việc làm chưa thật sự xứng với vai trò "công bộc của dân", "đày tớ của dân".

Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân khẳng định, Ðảng và Nhà nước ta cũng luôn cầu thị, lắng nghe nhân dân góp ý, phê bình để tiếp thu, sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm để cho Ðảng, Nhà nước vững mạnh hơn; xã hội tốt đẹp hơn, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Ðó cũng là biểu hiện của một chế độ xã hội dân chủ, văn minh thật sự - dân chủ gắn với kỷ cương, phép nước, thể hiện trong mối quan hệ tổng thể "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ".

Song, ở một khía cạnh khác, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho rằng việc nhân dân bày tỏ, phản ánh băn khoăn, lo lắng, thậm chí bức xúc về những lời nói, việc làm chưa tốt của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng là điều đáng mừng. Bởi vì, nhân dân còn tin tưởng vào Ðảng, Nhà nước thì mới góp ý, phê bình, bày tỏ bức xúc. Vấn đề là Ðảng và Nhà nước cần phải có biện pháp giáo dục, rèn luyện để nâng cao hơn nữa bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên sao cho xứng với niềm tin, kỳ vọng của nhân dân vào Ðảng và Nhà nước.

Bộ trưởng Lê Vĩnh Tân cho biết, để góp phần thực hiện yêu cầu nêu trên, bên cạnh các giải pháp lớn, mang tính tổng thể đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước chỉ rõ, thời gian tới, Bộ Nội vụ sẽ chú trọng thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
 
           

Trích phát biểu của TBT, CTN Nguyễn Phú Trọng

Thứ nhất, công tác xây dựng thể chế của Bộ Nội vụ luôn bám sát các chủ trương, định hướng lớn trong Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng nhằm tập trung xây dựng thể chế mới về bộ máy hành chính nhà nước và nền hành chính quốc gia tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, nhất quán là phải tập trung ưu tiên hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành theo tinh thần thượng tôn pháp luật. Bảo đảm thống nhất, liên thông giữa quy định của Ðảng và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy phẩm chất, uy tín, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ và yêu cầu đổi mới về tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị trong tình hình mới.

Thứ hai, Bộ Nội vụ sẽ tham mưu với Ðảng và Nhà nước về tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng đi vào chiều sâu, chi tiết, cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước, gắn với hiện đại hóa nền hành chính, chính phủ điện tử, chính phủ số, chính quyền điện tử, chính quyền số, kinh tế số, số hóa Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức, viên chức để phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức bộ máy và biên chế của hệ thống chính trị thật sự tinh gọn, hợp lý và hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh hơn nữa phân cấp, phân quyền để các cơ quan, tổ chức năng động, sáng tạo trong huy động mọi nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội. Ðồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, trong đó có giám sát của nhân dân để bảo đảm việc thực hiện phân cấp, phân quyền đúng quy định của pháp luật và đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân.

Thứ ba, Bộ Nội vụ sẽ tham mưu cho Ðảng và Nhà nước việc tiếp tục thực hiện chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, kiên quyết giảm những người làm việc kém hiệu quả; gắn với xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thực hiện cải cách chính sách tiền lương để cán bộ, công chức, viên chức và người lao động yên tâm gắn bó với công việc, có tinh thần trách nhiệm và hiệu quả làm việc cao hơn; thu hút và trọng dụng người có tài năng vào làm việc trong bộ máy cơ quan Ðảng, Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Ðồng thời, Bộ Nội vụ sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu với Ðảng và Nhà nước hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia giám sát việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức; cơ chế để cán bộ, công chức, viên chức tự phê bình, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của nhân dân, khắc phục và sửa chữa những thiếu sót, khuyết điểm được nhân dân góp ý, phát hiện, phê bình trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức đoàn thể đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.

Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân cho rằng, nếu thực hiện một cách kiên trì, nhất quán và có hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nêu trên, sẽ bảo đảm cho thể chế quản lý nhà nước về công tác tổ chức và cán bộ thật sự là động lực pháp lý của sự phát triển bền vững đất nước. Ðội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước sẽ thật sự là chủ thể trung tâm của sự kiến tạo phát triển, là yếu tố quyết định hiệu lực, hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và quản trị quốc gia.

“Nhân dân luôn đặt trọn niềm tin và kỳ vọng vào đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định và đổi mới, sáng tạo, một lòng một dạ, toàn tâm toàn ý vì dân giàu, nước mạnh, Tổ quốc trường tồn, giang sơn bền vững... thì trách nhiệm của chúng ta là phải làm sao có đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng đó của nhân dân”, Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân nêu quan điểm./.

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất