Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan


Đ/c Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Dân vận Trung ương và đ/c Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao trao Giải B cho các tác giả, nhóm tác giả.


Trong các chính thể hiện đại, bất luận nhà nước và xã hội nào cũng đều do giai cấp nhất định lãnh đạo thông qua chính đảng đại diện cho giai cấp ấy. Một đảng duy nhất cầm quyền hay lưỡng đảng, đa đảng thay nhau cầm quyền là do tương quan lực lượng chính trị ở từng quốc gia quy định. Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, do tương quan lực lượng chính trị Việt Nam quy định, được lịch sử lựa chọn, được nhân dân tin tưởng, trao gửi trọng trách bằng hiến định và được khẳng định bằng năng lực, hiệu quả lãnh đạo.

Trong vô số các hoạt động chống phá có hệ thống của các thế lực thù địch thì việc xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam bao giờ cũng là trọng điểm, được tiến hành một cách ráo riết, quyết liệt. Chúng cố tình “lờ đi”, “lảng tránh” thực tế lựa chọn của lịch sử dân tộc đối với đảng cách mạng chân chính, tiên phong, đủ năng lực lãnh đạo và đào thải tự nhiên đối với những tổ chức không xứng đáng, phản bội lại lợi ích dân tộc, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân. Chúng xuyên tạc một đảng duy nhất cầm quyền đồng nhất với “toàn trị”, “mất dân chủ” để cổ xúy cho đa nguyên, đa đảng, ra sức phủ nhận thực tế dân chủ trong Đảng và cơ chế phát huy sức mạnh dân chủ toàn xã hội của Đảng ta. Chúng tấn công vào các điều khoản hiến định khẳng định địa vị cầm quyền, vai trò lãnh đạo hợp hiến, hợp pháp của Đảng ta; vu khống, xuyên tạc Đảng ta “đứng trên luật pháp”, cố tình “quên đi” nguyên tắc mọi tổ chức đảng và đảng viên phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, thực hiện cầm quyền theo pháp luật.

Bài viết này góp phần làm rõ thêm rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách quan, thể hiện tính chính đáng về sự cầm quyền được hiến định, được lịch sử lựa chọn, nhân dân tin tưởng trao trọng trách và tuyệt đối tin theo, nhất là được kiểm chứng trên thực tế bằng bản lĩnh, uy tín, năng lực, đạo đức của một đảng cách mạng chân chính, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền vì lợi ích của quốc gia - dân tộc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

1- Đầu thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực lượng, tổ chức theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng dân tộc nhưng cuối cùng đều thất bại. Thất bại đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải có một chính đảng đủ năng lực hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo, có khả năng và uy tín tập hợp lực lượng dân tộc và đoàn kết quốc tế, thì mới gánh vác được trọng trách lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 đã đáp ứng trúng nhu cầu lịch sử, khắc phục được những sai lầm, thiếu sót của các phong trào yêu nước trước đó. Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập trường giai cấp của mình và tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công nhân, phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý tưởng cách mạng của Đảng. Các lực lượng chính trị khác hoặc thối chí, hoặc thoái hóa, thậm chí đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu hàng thực dân đế quốc, không những mất dần uy tín chính trị, mà còn bị nhân dân xa lánh; chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ năng lực và phẩm chất để lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi theo làm cách mạng tự giải phóng. Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng định trong suốt tiến trình cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng. Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Một đảng mới 15 năm tuổi, chỉ với khoảng 5 nghìn đảng viên, đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, “phá tan gông xiềng nô lệ hơn 80 năm của chế độ thực dân, xóa bỏ chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc”(1). Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân, nhưng đứng trước sự chống phá điên cuồng của thù trong, giặc ngoài, Đảng phải ra tuyên bố “Tự ý giải tán” (11-11-1945)(2), thực chất là rút vào hoạt động bí mật. Trong điều kiện không thể hoạt động công khai, việc giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước càng có ý nghĩa quan trọng, nhất là thể chế hóa đường lối của Đảng thành Hiến pháp năm 1946, phát huy vai trò, uy tín của lãnh tụ Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tịch nước, đề cao tính tiền phong, gương mẫu, uy tín của những người cộng sản trong bộ máy nhà nước. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khẳng định bằng uy tín, sự hy sinh của biết bao đảng viên trong nhà tù đế quốc thực dân; bằng bản lĩnh và trí tuệ, dám đối mặt và giải quyết có hiệu quả những thách thức đe dọa sự tồn vong của quốc gia - dân tộc; bằng sự sát hạch trong Chính phủ liên hiệp nhiều đảng phái với lý luận sắc bén, cơ sở thực tiễn thuyết phục. Thực tế đó khiến cho không chỉ những người không đảng phái bị thuyết phục, chấp nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, mà kể cả các lực lượng chính trị đối lập (Việt quốc, Việt cách) cũng không dám công khai chống phá những đường lối, chủ trương của Đảng hợp lòng dân, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

Bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, trong khi các lực lượng chống cộng chạy theo làm tay sai cho ngoại bang, bán nước cầu vinh, các lực lượng chính trị khác dù có tinh thần dân tộc nhưng thiếu năng lực và uy tín, bị đào thải tự nhiên, thì Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín để lãnh đạo dân tộc, lãnh đạo nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục được nhân dân thừa nhận, tin tưởng tuyệt đối và tự nguyện đứng dưới ngọn cờ của Đảng; được khẳng định bằng đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo; bằng sự dấn thân, hy sinh của những người đảng viên cộng sản trên những mặt trận gian khổ nhất; bằng thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng sinh tử mà không lực lượng chính trị nào có thể thay thế được; bằng sự dũng cảm thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước nhân dân để không ngừng hoàn thiện và lãnh đạo cách mạng tiến lên. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, bảo vệ biên giới phía Bắc của Tổ quốc là những bằng chứng thực tiễn sinh động khẳng định năng lực, tố chất của Đảng trong lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện chiến tranh, mặc dù Đảng trực tiếp lãnh đạo nhiều mặt, nhưng luôn coi trọng phát huy vai trò, sức mạnh của Nhà nước để tổ chức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; xây dựng hậu phương lớn ở miền Bắc và điều hành trực tiếp cuộc kháng chiến trên chiến trường miền Nam; phát huy sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao.

Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước sau ngày đất nước thống nhất, sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hóa trong các bản hiến pháp. Khi đứng trước những sai lầm, khuyết điểm do bệnh chủ quan, duy ý chí, Đảng đã dũng cảm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” và khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đường lối đổi mới toàn diện đất nước của Đảng đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phù hợp với xu thế thời đại, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có vai trò cực kỳ quan trọng để bảo vệ, phát huy quyền con người, quyền công dân, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Lãnh đạo thông qua Nhà nước trở thành phương thức quan trọng hàng đầu, khẳng định địa vị cầm quyền của Đảng khi quyền lực chính trị được chính đáng hóa trong quyền lực công, đường lối của Đảng được thể chế hóa, nguồn lực và sức mạnh của Nhà nước được sử dụng để phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi nắm chính quyền, Đảng càng có điều kiện sử dụng sức mạnh Nhà nước để đấu tranh với các thế lực đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của mình. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được thực tiễn đất nước khẳng định, phù hợp với nguyện vọng, ý chí của nhân dân và được hiến định. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bước vào hàng ngũ các quốc gia có thu nhập trung bình, vị thế ngày càng cao trong khu vực và trên thế giới. Chưa bao giờ dân tộc ta có được cơ đồ, vị thế, tiềm lực và uy tín như ngày nay.

2- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội với vai trò, vị trí là một đảng duy nhất cầm quyền, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về quyết định của mình. Bản chất của đảng cầm quyền là đảng lãnh đạo chính quyền và nhờ đó bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Vấn đề cốt yếu đối với một đảng cộng sản cầm quyền là cầm quyền một cách khoa học, dân chủ và tuân theo pháp luật trên cơ sở giữ vững sự trong sạch, vững mạnh của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên và quan hệ gắn bó máu thịt giữa đảng với nhân dân(3). Đảng cầm quyền lãnh đạo nhà nước nhưng không đồng nhất quyền lực của đảng với quyền lực nhà nước. Quyền lực của đảng là quyền lực chính trị, thể hiện ở năng lực trí tuệ đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương đúng đắn, sáng suốt, được thể chế hóa thành hiến pháp, pháp luật; lựa chọn, giới thiệu các đảng viên ưu tú, có uy tín để nhân dân bầu vào các cơ quan quyền lực nhà nước, thông qua đó, hiện thực hóa ý chí của Đảng bằng tất cả sức mạnh của bộ máy nhà nước. Quyền lực nhà nước về hình thức là quyền lực công, nhưng về bản chất vẫn là quyền lực chính trị, bởi bất cứ lực lượng chính trị nào muốn thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình cũng đều phải tìm cách giành lấy chính quyền, sử dụng sức mạnh nhà nước phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình. Chính điều này quy định nhà nước mang chức năng thống trị chính trị và chức năng xã hội (công quyền), bảo đảm sự thống nhất giữa hai chức năng này là cơ sở cho giữ vững được bản chất cách mạng của nhà nước và không ngừng phát huy dân chủ trong xã hội, bảo đảm nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Việc tồn tại một đảng, lưỡng đảng hay đa đảng ở từng nước là do những điều kiện lịch sử - cụ thể, tương quan lực lượng chính trị quy định, không có khuôn mẫu chung cho tất cả các nước. Ở Việt Nam, từ trước năm 1988, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo chính quyền, còn có hai đảng tham chính: Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Hai đảng này đều do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng ra vận động thành lập, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không phải là đảng đối lập. Năm 1988, hai đảng tuyên bố tự giải thể sau khi đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Trong các văn kiện chính trị - pháp lý ở Việt Nam, thuật ngữ Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội được sử dụng phổ biến, chính thức. Khái niệm đảng lãnh đạo chính quyền và đảng cầm quyền dù nội hàm khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Khi nắm chính quyền, đảng không thể hoàn thành được sứ mệnh lãnh đạo nếu không thông qua bộ máy nhà nước, không thực hiện tốt trách nhiệm cầm quyền, không sử dụng đầy đủ quyền lực công, sức mạnh của nhà nước để phục vụ cho mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của mình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4).

Địa vị cầm quyền của Đảng ta được hiến định, thể hiện ở nội dung cầm quyền, trách nhiệm của Đảng trong hệ thống chính trị, trong mối quan hệ giữa Đảng với các thiết chế chính trị, thiết chế chính trị - xã hội: Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và với toàn thể xã hội. Nội dung cầm quyền của Đảng được thể hiện trên các lĩnh vực đời sống xã hội, ở sứ mệnh trọng đại của Đảng đối với quốc gia - dân tộc, bảo vệ thành quả cách mạng, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vì sự tự do, phát triển của mỗi con người.

Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền.

Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền được khẳng định ở chỗ, Đảng đại biểu cho lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân, mà còn cả nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này hoàn toàn khác với đảng chính trị trong thể chế đa đảng chỉ đại biểu cho một nhóm lợi ích nhất định, mà trong rất nhiều trường hợp lợi ích cục bộ của đảng phái mâu thuẫn, xung đột với lợi ích chung của xã hội. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, bất cứ người nào, không phân biệt thành phần xuất thân, khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, tự nguyện đứng trên lập trường giai cấp công nhân để phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng, thực hiện theo Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, đều được bồi dưỡng và kết nạp vào Đảng. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp, của dân tộc, của nhân dân; Đảng đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện chủ nghĩa biệt phái, “lợi ích nhóm”, không chỉ có nguy cơ gây chia rẽ nội bộ mà còn làm suy giảm năng lực đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội được khẳng định ở sự tiêu biểu về trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng. Trí tuệ và năng lực lãnh đạo thể hiện ở việc hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng suốt, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Có được đường lối và phương pháp lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt là nhờ Đảng luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát thực tiễn và xu thế thời đại. Phương pháp lãnh đạo dân chủ được Đảng đề cao, từ phát huy dân chủ trong Đảng đến mở rộng dân chủ xã hội. Bất luận trong mọi tình thế, Đảng luôn bám sát thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan, tiếp thu ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân để hoàn thiện đường lối và phương pháp lãnh đạo của mình. Tổng kết thực tiễn, hướng về cơ sở, lắng nghe sáng kiến của nhân dân, làm cho đường lối của Đảng luôn phản ánh được nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, phù hợp quy luật khách quan,... luôn được Đảng đề cao. Là đảng duy nhất cầm quyền, nhưng Đảng không rơi vào tình trạng “độc thoại” - như các thế lực thù địch xuyên tạc - mà luôn tôn trọng, lắng nghe ý kiến phản biện của nhân dân, không định kiến với ý kiến khác khi đóng góp mang tính xây dựng, có trách nhiệm, vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều này thể hiện rõ khi xây dựng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, nhất là mỗi dịp chuẩn bị Đại hội Đảng thì việc thảo luận, góp ý xây dựng văn kiện Đảng luôn trở thành đợt sinh hoạt chính trị sôi nổi, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, các ý kiến góp ý được tổng hợp, chắt lọc, tiếp thu tối đa, làm cho nghị quyết của Đảng thật sự là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, phát huy cao độ vai trò nhân dân tham gia xây dựng Đảng.

Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội còn thể hiện ở đạo đức cầm quyền. Đường lối đúng đắn, sáng suốt của Đảng không chỉ do phương pháp khoa học, tôn trọng quy luật khách quan, mà còn ở đạo đức, lương tri, xuất phát từ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”. Khi đứng trước những sai lầm, khuyết điểm, Đảng không giấu giếm, mà dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm trước nhân dân và kiên quyết sửa chữa, khắc phục để tiến lên. Khi đối mặt với thách thức, hiểm nguy, mọi tổ chức đảng và đảng viên luôn gương mẫu, đi đầu, kể cả chấp nhận gian khổ, hy sinh. Trong điều kiện kinh tế thị trường, trước nguy cơ suy thoái phẩm chất đạo đức, lối sống, càng đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt cho mọi đảng viên phải đề cao trách nhiệm nêu gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải nêu gương, nhất là tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, đề kháng với mọi cám dỗ, thường xuyên tự soi, tự sửa để không ngừng hoàn thiện bản thân, giữ trọn lời thề trước Đảng, đáp lại niềm tin yêu của nhân dân. Xây dựng Đảng về đạo đức được xác định là một trong bốn nội dung của công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ mới.

Là đảng duy nhất cầm quyền, nhưng Đảng không cho phép bất cứ ai đứng trên pháp luật, mọi tổ chức đảng và đảng viên luôn phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở đường lối nhất quán về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân; thực hiện dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cùng với nguyên tắc Đảng lãnh đạo, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản khác, như tập trung dân chủ, pháp chế xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Thực hiện cầm quyền theo pháp luật, Đảng chỉ rõ kỷ luật Đảng không thay thế cho kỷ luật hành chính nhà nước. Đảng viên vi phạm pháp luật đều bị đưa ra xét xử nghiêm minh, không có ngoại lệ, nhất là các vụ đại án tham nhũng bị phát hiện, đưa ra truy tố, xét xử thời gian qua càng cho thấy Đảng ta luôn đặt mình trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến hết năm 2019, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 1.111 tổ chức đảng, 18.265 cấp ủy viên các cấp và 54.573 đảng viên. Trong đó, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thi hành kỷ luật 8 tổ chức đảng, 45 đảng viên; Ủy ban Kiểm tra Trung ương thi hành kỷ luật 111 đảng viên, trong đó có 92 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý (2 Ủy viên Bộ Chính trị, 21 Ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, 38 sĩ quan trong lực lượng công an, quân đội (cấp tướng là 23 đồng chí...)(5).

3- Hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là yêu cầu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Mặc dù Hiến pháp năm 1946 không quy định về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, song vai trò của Đảng luôn thể hiện xuyên suốt nội dung Hiến pháp và trong thực tiễn cách mạng.

Hiến pháp năm 1959 đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Lời nói đầu: “Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới”; “Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân ta đoàn kết rộng rãi trong Mặt trận dân tộc thống nhất, nhất định sẽ giành được những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nước nhà”.

Điều 4 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lê-nin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”.

Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 (gọi tắt là Hiến pháp năm 1992) thể chế hóa đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, kế thừa Hiến pháp năm 1980 về hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng. Điều 4 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Kế thừa Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều 4 Hiến pháp năm 2013, cùng với khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, đã bổ sung, phát triển những nội dung quan trọng về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Khoản 2, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nội dung mới, thể hiện rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân: “Ðảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Những quy định bổ sung này không chỉ tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, vai trò tiên phong của Đảng, mà đây là lần đầu tiên chế định hóa trách nhiệm chính trị - pháp lý của Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Cả hai chiều quan hệ: Đảng với nhân dân và nhân dân với Đảng được xác định một cách biện chứng, bản chất là giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng cầm quyền và cơ sở xã hội của nó.

Nhân dân là cơ sở xã hội, là nguồn sức mạnh hùng hậu của Đảng, bởi vậy, phục vụ nhân dân là lý do tồn tại của Đảng. Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải hợp lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, ý Đảng phải gắn với lòng dân. Điều 9 Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, giám sát và phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”(6); “Muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy”(7). Trong Di chúc, Người viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi vấn đề Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc thể hiện vai trò, trách nhiệm cầm quyền của Đảng. Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó bởi “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(8). Vì vậy, “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(9); “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”(10).

Quy định về Đảng chịu sự giám sát của nhân dân và nhân dân tham gia xây dựng Đảng mang ý nghĩa trên cả phương diện “xây” và “chống”. Nhân dân thực hiện quyền giám sát xã hội thông qua phát huy chức năng giám sát của các cơ quan dân cử đối với Nhà nước, trước hết đối với đảng viên tham gia bộ máy nhà nước, sử dụng quyền lực và nguồn lực nhà nước phục vụ nhân dân có hiệu quả. Nhân dân giám sát và phản biện xã hội thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và trực tiếp phê bình, góp ý đối với cán bộ, đảng viên. Đảng ta là đảng duy nhất cầm quyền, do đó, quy định này góp phần vào thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.

Trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, phải coi xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc thường xuyên của Đảng. Người nhận thức rõ hai mặt của quyền lực: quyền lực có sức mạnh to lớn, nếu được sử dụng đúng đắn, có đạo đức, sẽ có tác dụng tích cực trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới; ngược lại, quyền lực cũng có sức phá hoại rất ghê gớm khi người có chức, có quyền thoái hóa, biến chất, sử dụng quyền lực thiếu đạo đức, dùng quyền lực công để mưu lợi riêng, lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi. Trước lúc đi xa, Người đã căn dặn toàn Đảng: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”(11).

4- Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng phương thức lãnh đạo khoa học, trước hết là lãnh đạo thông qua Nhà nước và cầm quyền bằng pháp luật. Phương thức lãnh đạo đúng đắn vừa bảo đảm tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy đầy đủ chức năng của Nhà nước, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính chính đáng của sự cầm quyền của Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định các nội dung cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm: (i) Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; (ii) Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; (iii) Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị; (iv) Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu, thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo; (v) Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(12).

Các thành tố cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm: các công cụ lãnh đạo; hệ thống các mối liên hệ và cơ chế liên hệ giữa Đảng với xã hội, Nhà nước, hệ thống chính trị; hệ thống các phương pháp tiếp cận và phong cách lãnh đạo. Cơ sở của phương thức lãnh đạo bắt nguồn từ vị trí, vai trò của Đảng với tư cách là một đảng cầm quyền, có trách nhiệm trọng đại đối với sự phát triển của đất nước. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, không phải vì lợi ích riêng của Đảng, mà bị quy định bởi sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm chính trị của Đảng đối với dân tộc, với nhân dân; là yêu cầu đánh giá, thẩm định của nhân dân đối với năng lực, uy tín của lực lượng lãnh đạo có nhiệm vụ đưa dân tộc phát triển. Nhận thức được vấn đề này có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho mỗi tổ chức đảng và đảng viên khi xác định tư cách, trách nhiệm, bổn phận của mình trên từng cương vị lãnh đạo cả bình diện vĩ mô cũng như ở từng địa phương, cơ sở; góp phần ngăn ngừa, hạn chế sự lạm dụng quyền lực được giao để mưu lợi ích riêng, gây tổn hại đến uy tín, hình ảnh của Đảng đã được gây dựng và thừa nhận trong suốt quá trình lịch sử. Nhận thức đầy đủ, đúng đắn về vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng là một trong những cách thức để phòng ngừa, đấu tranh với bệnh chủ quan, độc đoán trong lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là tình trạng bao biện, làm thay chức năng của Nhà nước.

Mỗi thời kỳ lịch sử, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và thay đổi của môi trường, hoàn cảnh, phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới để thích ứng. Trong giai đoạn hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng xuất phát từ chính yêu cầu phát huy đầy đủ hơn chức năng của Nhà nước đối với quản lý và phát triển. Chỉ trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng mới làm cho Nhà nước giữ vững được bản chất cách mạng, phát huy dân chủ, tổ chức và hoạt động tuân theo pháp luật, đáp ứng đúng nhu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Bản chất của nó chính là cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được thể chế hóa gắn với trách nhiệm của từng chủ thể, từng thành viên hệ thống chính trị trong tất cả các mối quan hệ. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bị quy định bởi đặc tính khách quan và chức năng cơ bản của hệ thống tổ chức nhà nước và tính chất lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; phản ánh mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện, điều kiện đạt mục tiêu, nói rộng ra, đó là mối quan hệ giữa chức năng của hệ thống và cơ chế thực hiện.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng là nhằm bảo đảm Nhà nước hoạt động đúng hiến pháp, pháp luật, làm tốt hơn việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mọi tổ chức và cá nhân, vì tự do, hạnh phúc của con người và sự phát triển bền vững của đất nước. Thước đo tính đúng đắn, uy tín lãnh đạo của Đảng cuối cùng phải được thể hiện ở hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Năng lực, hiệu quả hoạt động, uy tín xã hội của Nhà nước không chỉ do các tổ chức đảng đánh giá, mà còn dựa vào sự đánh giá công khai, dân chủ của người dân, cộng đồng và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không chỉ ở cấp Trung ương, mà cả cấp địa phương, thể hiện trong mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức đảng với các cơ quan, tổ chức nhà nước các cấp. Thực hiện Cương lĩnh và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với Nhà nước và các thiết chế khác trong hệ thống chính trị. Đó là những phương hướng lớn cho sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, những quan điểm cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại. Cương lĩnh, chiến lược, đường lối đúng đắn, khoa học và phù hợp xu thế thời đại là điều kiện cơ bản để Đảng phát huy được vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội. Đó là vai trò, trách nhiệm, vị thế, là quyền lực chính trị, tính chính danh của Đảng.

Trách nhiệm của Nhà nước là phải kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành các chính sách, pháp luật và tổ chức thi hành các chính sách, pháp luật đó một cách kịp thời, triệt để. Lãnh đạo việc thể chế hóa là một nội dung quan trọng, thể hiện sự cầm quyền bằng pháp luật, ý chí của Đảng được thực hiện bằng tất cả sức mạnh của luật pháp. Lãnh đạo của Đảng đối với công tác thể chế hóa bảo đảm cho luật pháp được thực hiện công bằng, không thiên vị, phản ánh đúng ý chí, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; loại trừ các biểu hiện “lợi ích nhóm” có thể bị “cài cắm” trong hoạch định luật pháp, chính sách, nhất là trong điều kiện “nhóm lợi ích” vận động phức tạp, thường tìm cách hướng lái chính sách để trục lợi, gây tổn hại đến lợi ích chung.

Phương pháp lãnh đạo của Đảng là phương pháp dân chủ, giáo dục, thuyết phục và bằng uy tín của các đảng viên của Đảng. Đảng không dùng phương pháp mệnh lệnh, cưỡng bức. Đó chính là sự khác nhau giữa phương pháp lãnh đạo của Đảng và phương pháp quản lý của Nhà nước.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được Hiến pháp xác định. Đây cũng là việc hiến định mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và xã hội: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật(13).

Phong cách lãnh đạo của Đảng được thực hiện bằng hình thức tuyên truyền, thuyết phục, vận động và bằng hoạt động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của cá nhân.

Phương thức lãnh đạo của Đảng có vị trí, vai trò to lớn trong cơ chế hiện thực hóa mục tiêu lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng phải xuất phát từ thực tiễn dân tộc và thời đại, thực tiễn công tác xây dựng Đảng ở nước ta, thường xuyên tổng kết, bổ sung để phát triển lý luận, giải quyết tốt những vấn đề do thực tiễn đặt ra(14).

***

Hiệu quả lãnh đạo của Đảng là bằng chứng sinh động bác bỏ mọi luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng; khẳng định tính tất yếu là dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam cần có Đảng lãnh đạo để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược đất nước và thực hiện khát vọng tự cường dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội càng có tầm quan trọng đặc biệt, cấp thiết hơn bao giờ hết gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, trách nhiệm cầm quyền của Đảng, làm cho hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước được tăng cường, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy đầy đủ, nhất là huy động, lôi cuốn nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, thực hiện tốt hơn việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

-----------------------------

(1) Nguyễn Phú Trọng: “Tiếp tục đi theo con đường cách mạng vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp của Người”, Tạp chí Cộng sản, số 943, tháng 6-2020.

(2) Đến Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2-1951), khi điều kiện thuận lợi, Đảng mới ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

(3) Ban Tổ chức Trung ương: Một số vấn đề về đảng cầm quyền và công tác xây dựng Đảng trong tình hình mới (Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch chuyên viên cao cấp khối Đảng, đoàn thể năm 2011), Hà Nội, 2011, tr. 1-2.

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88.

(5) Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng năm 2019, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, 
http://www.xaydungdang.org.vn/Home/thoisu/2020/13503/Hoi-nghi-toan-quoc-tong-ket-cong-tac-kiem-tra-giam-sat.aspx

(6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 4, tr. 51, 52.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 3, tr. 5.

(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 5, tr. 249, 250.

(11) Hồ Chí Minh:  Toàn tậpSđd, t. 15, tr. 616.

(12) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XISđd, tr. 88-89.

(13) Xem: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr. 9-10.

(14) Phạm Ngọc Quang: Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 32.

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất