Khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung


Ban Tổ chức Trung ương tổ chức hội nghị trực tuyến lấy ý kiến góp ý vào các dự thảo tờ trình, đề án, báo cáo, quy định trình Bộ Chính trị, trong đó có Tờ trình, Quy định của Bộ Chính trị về khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung, ngày 29-4-2020.

Kỳ 1: Sự khác biệt giữa đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ với phát minh, sáng chế

Thực hiện nhiệm vụ được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao năm 2020, Ban Tổ chức Trung ương chủ trì xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Có một số ý kiến khác nhau về định nghĩa đổi mới, sáng tạo, cho rằng sáng tạo khoa học - công nghệ phải là phát minh, sáng chế hay sáng kiến kinh nghiệm trong công tác. Tuy nhiên, trên thực tế đổi mới, sáng tạo gắn với tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung của đội ngũ cán bộ lại mang những đặc trưng riêng, khác biệt so với hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là trong những năm đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm, coi trọng, động viên, khích lệ các phong trào thi đua đổi mới, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đổi mới, sáng tạo được coi là động lực quan trọng để phát triển quốc gia. Gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo hành lang pháp lý, mở rộng không gian đổi mới, sáng tạo trong cán bộ, đảng viên. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) đã xác định nhiệm vụ trọng tâm “... chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”. Đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung là việc cán bộ với tư duy, cách làm mới tạo ra những thay đổi, tiến bộ để giải quyết các vấn đề thực tế đặt ra bằng các giải pháp sáng tạo, đột phá, từ đó mang lại những giá trị mới, thiết thực, hiệu quả về vật chất và tinh thần, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, chuyển biến tích cực trong toàn xã hội. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và tâm huyết, trăn trở với công việc, những cán bộ đổi mới, sáng tạo luôn mạnh dạn trong suy nghĩ, quyết đoán trong hành động, sẵn sàng hy sinh lợi ích bản thân vì mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, phát minh được quy định là việc phát hiện một sự vật, một hiện tượng hoặc một quy luật tồn tại khách quan của tự nhiên mà con người chưa từng biết tới. Phát minh làm thay đổi, nâng cao trình độ nhận thức của con người đối với tự nhiên và tạo cơ sở để con người lợi dụng, chế ngự tự nhiên. Phát minh khoa học là yếu tố quyết định đối với tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Phát minh thường gắn liền với những nghiên cứu cơ bản trong khoa học lý thuyết và khoa học ứng dụng. Phát minh phản ánh các mối quan hệ hiện thực khách quan cơ bản và những tính chất của các hiện tượng trong thế giới thực (theo Từ điển bách khoa Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa, HN.2011). Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên (Khoản 12, Điều 4, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019). Sáng kiến là giải pháp kỹ thuật, giải pháp quản lý, giải pháp tác nghiệp, hoặc giải pháp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật (gọi chung là giải pháp), được cơ sở công nhận nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Có tính mới trong phạm vi cơ sở đó; b) Đã được áp dụng hoặc áp dụng thử tại cơ sở đó và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực; c) Không thuộc đối tượng bị loại trừ quy định tại khoản 2 Điều này (Điều 3 Nghị định 13/2012/NĐ-CP ngày 02-3-2012 của Chính phủ về ban hành Điều lệ Sáng kiến). Cải tiến kỹ thuật là việc tìm ra những giải pháp mới về kỹ thuật, về quy trình quản lý, giúp tạo ra lợi nhuận và giá trị gia tăng cho tổ chức. Đây là hoạt động mang mục đích khám phá bản chất, quy luật trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, từ đó tạo ra các tri thức mới về quy trình, kỹ năng, phương pháp, phương tiện để ứng dụng vào sản xuất và đời sống xã hội. Những hoạt động sáng tạo này nhìn chung cần đáp ứng các điều kiện mới trong phạm vi cơ sở, tổ chức đó, đã được áp dụng thành công và có khả năng mang lại lợi ích thiết thực.

Thoạt nhìn, những sáng tạo trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá có nét tương đồng vì chúng đều hướng đến tìm ra điểm mới. Tuy nhiên, giữa đổi mới, sáng tạo của cán bộ và những hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có một số đặc điểm khác biệt cơ bản:

Thứ nhất, điểm xuất phát của đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá là từ yêu cầu thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn mà cán bộ được giao với nền tảng giá trị là lợi ích của quốc gia, dân tộc, của Đảng và Nhân dân. Nó không giống những phát minh, sáng chế được nuôi dưỡng từ say mê của nhà khoa học, hình thành sau cánh cửa phòng thí nghiệm với mục tiêu tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá là sự kết hợp từ sức mạnh của khối óc và trái tim, là ý tưởng mà cán bộ trăn trở, suy nghĩ, xuất phát từ ý thức trách nhiệm, từ quyết tâm giải quyết vấn đề do yêu cầu thực tiễn đặt ra, phục vụ nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị, là sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích địa phương, cơ quan, đơn vị và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích chung được đặt lên trên hết, trước hết. Cán bộ đổi mới, sáng tạo với động cơ trong sáng, vì lợi ích chung là những người luôn học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu, đổi mới trong tư duy để có những cách làm mới, phương thức mới, tháo gỡ nút thắt, giải quyết bài toán của thực tiễn,  thúc đẩy phát triển.

Thứ hai, đổi mới, sáng tạo của đội ngũ cán bộ không chỉ là tiên phong làm những điều khác biệt, chưa có thông lệ, tiền lệ mà còn dám đảm đương với những khó khăn, phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro, đòi hỏi bản lĩnh, tính quyết đoán, dám đương đầu của người cán bộ, đảng viên. Từ đó, giúp tháo gỡ những nút thắt, khơi thông điểm nghẽn trong thực tiễn để bứt phá, mang lại những giá trị mới về lý luận và thực tiễn, đồng thời góp phần tạo cơ sở hoàn thiện cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tuy tạo ra cái mới, khác biệt và loại bỏ cái cũ lạc hậu kìm hãm, cản trở sự phát triển, nhưng đổi mới, sáng tạo không phải là phủ định sạch trơn nhận thức, cách làm trước đây, mà khẳng định những gì đã nghĩ đúng, làm đúng, giữ lại thành tựu của quá khứ, lấy đó làm tiền đề để tiếp tục tiến lên như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý... Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm... Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm”(1). Vì vậy, đổi mới, sáng tạo phải luôn bám sát, phản ánh đúng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo tạo ra những giá trị mới, thiết thực, phù hợp với quy luật khách quan.

Thứ ba, đổi mới, sáng tạo gắn với dám nghĩ, dám làm, dám đột phá của cán bộ phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Bởi đây là những ý tưởng do cán bộ đề xuất, trực tiếp thực hiện hoặc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Từ lúc đề xuất ý tưởng cho đến khi triển khai thực hiện và hoàn thành kế hoạch, cán bộ phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc của Đảng, quy định của cơ quan, đơn vị. Đây cũng là điểm khác biệt so với những hoạt động sáng tạo trong khoa học - công nghệ thông thường, mỗi cá nhân đều có thể thực hiện nghiên cứu, sáng tạo. Bởi đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá là những việc mới, khó, chưa có tiền lệ, vì thế cần phải có quy trình xem xét, đánh giá chặt chẽ của cấp ủy, tổ chức đảng thông qua các cơ quan chuyên môn để hạn chế những rủi ro, sai sót hoặc ngăn chặn những hành vi nhân danh đổi mới, sáng tạo cố ý vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước nhằm trục lợi. Hơn nữa, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ mới có đủ nguồn lực cần thiết, huy động được sức mạnh tập thể, trí tuệ chung để đưa ý tưởng đổi mới, sáng tạo thành hiện thực.

Thứ tư, một giải pháp chỉ được công nhận là sáng chế, sáng kiến khi áp dụng vào thực tiễn, mang lại lợi ích thiết thực cho tổ chức. Kết quả của các hoạt động sáng tạo này gắn với việc mang lại hiệu quả về mặt kinh tế, tức là đặt trong sự so sánh giữa lợi nhuận thu được với số vốn đầu tư. Trong khi đó, đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá của cán bộ, kết quả mang lại có thể là hiệu quả về kinh tế - xã hội, trong đó, hiệu quả xã hội thường có tầm ảnh hưởng lớn hơn so với hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả về mặt xã hội thường khó xác định và có “độ trễ” về mặt thời gian. Đổi mới, sáng tạo là một quá trình, là một cuộc cách mạng “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(2), có những việc lập tức gặt hái được thành quả, nhưng cũng có không ít giá trị cần được kiểm chứng qua thời gian. Đây là những ý tưởng mới, khác biệt, khác người, hay đi ngược lại số đông, thậm chí có ý tưởng còn vượt qua tư duy, chế định thông thường, không dễ dàng nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của tập thể. Với những ý tưởng đổi mới, sáng tạo “đi trước thời gian” có thể sẽ mất rất lâu để được công nhận, đòi hỏi người cán bộ phải có bản lĩnh vững vàng, ý chí lớn, quyết tâm cao, dùng kết quả cuối cùng để minh chứng cho quyết sách đột phá của mình. Lịch sử đã chứng kiến nhiều tấm gương mẫu mực đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhân dân, tiêu biểu như đồng chí Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc với quyết sách “khoán hộ” năm 1966, là một trong những cơ sở quan trọng để Trung ương ban hành Chỉ thị số 100/CT-TW năm 1981 và Nghị quyết số 10/NQ-TW năm 1988, từ đó làm thay đổi căn bản kinh tế nông nghiệp nước ta; nữ Anh hùng Lao động Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi) với kỳ tích “cởi trói” cho hạt gạo tại TP. Hồ Chí Minh và đồng bằng sông Cửu Long năm 1977-1978, góp phần vào việc bỏ chế độ bao cấp gạo và thực hiện thành công việc bán gạo một giá trên toàn quốc…

Thứ năm, những sáng tạo trong hoạt động khoa học - công nghệ là quá trình biến ý tưởng, tri thức mới thành kết quả cụ thể như giải pháp kỹ thuật, quản lý, quy trình… giúp tăng giá trị của sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh hoặc chất lượng tổ chức, quản lý. Trong khi đó, đổi mới, sáng tạo của cán bộ tạo ra sự thay đổi lớn, mang lại những giá trị mới, thiết thực, hiệu quả về vật chất, tinh thần, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong toàn xã hội bằng những cách làm mới, hiệu quả, thậm chí đột phá vào những nội dung lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình thực tiễn trong các quy định hiện hành, góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước. Thực tiễn có nhiều minh chứng cho đổi mới, sáng tạo của Đảng ta, tiêu biểu như chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN (Đại hội VI, năm 1986), tạo tiền đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn phát triển của nước ta, bảo đảm phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới. Việc xác định mô hình kinh tế phù hợp đã giúp khai thác hiệu quả các nguồn lực, tạo bứt phá ấn tượng, đưa Việt Nam từ quốc gia thiếu đói trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và nhiều mặt hàng quan trọng, thu nhập bình quân đầu người đạt mức gần 2.800 USD năm 2019.

Thứ sáu, tác giả các ý tưởng, tri thức mới trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có thể là bất kì ai. Các hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực này phần lớn là thành quả của quá trình nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ của các chuyên gia, nhà khoa học từ các viện, trường hay khu vực doanh nghiệp. Cũng có những sáng tạo là kết quả của hoạt động thực tiễn trong sản xuất và đời sống như những cải tiến kỹ thuật hay sáng kiến kinh nghiệm đến từ các “nhà khoa học không chuyên”. Trong khi đó, những ý tưởng đổi mới, sáng tạo, những hành động dám nghĩ, dám làm, dám đột phá chủ yếu đến từ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó đi đầu là những cán bộ chủ chốt, chiến lược, những người đứng đầu đất nước với tấm gương tiêu biểu như Tổng Bí thư Trường Chinh, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Võ Văn Kiệt… Các quyết sách táo bạo của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở những thời điểm lịch sử đã làm nên bước ngoặt quan trọng, xoay chuyển tình hình kinh tế - xã hội của đất nước. Hành động sáng tạo, đột phá của họ không chỉ dựa trên nền tảng tích lũy kiến thức, kinh nghiệm mà còn có sự kết hợp với năng lực, phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo - những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, hành động quyết đoán, có trách nhiệm cao trước tập thể, sẵn sàng hy sinh lợi ích của bản thân vì mục tiêu phát triển bền vững của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thực tiễn cho thấy, đổi mới, sáng tạo giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển, là nhân tố đem lại những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực cho xã hội. Thời gian qua, nhiều chủ trương, chính sách mới đã được ban hành nhằm khuyến khích đổi mới, sáng tạo, tuy nhiên hầu hết chỉ tập trung phát triển khoa học - công nghệ và khu vực tư nhân mà chưa có cơ chế riêng để khuyến khích đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá trong lĩnh vực công, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ của Đảng. Để đổi mới, sáng tạo thực sự là động lực, là chìa khóa cho phát triển kinh tế - xã hội, cần có cơ chế khuyến khích cán bộ năng động, đổi mới, sáng tạo, đồng thời “bảo đảm chính trị” để cán bộ tự tin phấn đấu, dấn thân, cống hiến vì lợi ích chung.

Kỳ 2: Xử lý những quan điểm khác nhau trong quá trình xây dựng quy định về khuyến khích và bảo vệ đổi mới, sáng tạo

1. Về phạm vi, đối tượng, trong dự thảo Quy định có nêu: “Đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá trước hết là nhằm tập trung giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm của đất nước, của ngành, lĩnh vực, địa phương, cơ quan, đơn vị, những điểm nghẽn, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn để bứt phá, đồng thời góp phần làm cơ sở hoàn thiện cơ chế, chính sách, thể chế, hệ thống luật pháp… Quy định này không áp dụng đối với các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế; áp dụng đối với cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và các cơ quan trong hệ thống chính trị”.

Thế nhưng, Tổ Biên tập đã nhận được những ý kiến trái ngược nhau. Về đối tượng, đa số ý kiến cho rằng, đây là quy định lần đầu tiên được xây dựng, có nhiều nội dung mới, khó, phức tạp, chưa có tiền lệ nên trước mắt chỉ tập trung vào một nhóm đối tượng nhất định để bảo đảm tính khả thi. Ngược lại, không ít ý kiến đề nghị không nên hạn chế đối tượng đổi mới, sáng tạo mà phải tạo điều kiện tối đa cho tất cả cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị phát huy hết khả năng, trí tuệ phục vụ đất nước, phục vụ Nhân dân. Thực tế cho thấy, sức sáng tạo của số đông, của quần chúng nhân dân là vĩ đại nhất, thực sự làm nên những kỳ tích của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Cả hai luồng ý kiến trên đều có cơ sở và hoàn toàn hợp lý, không mâu thuẫn về quan điểm mà chỉ khác nhau về trình tự triển khai xây dựng quy định. Việc xác định đối tượng tập trung trước hết vào số cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện hiện nay như là “phép thử” đối với Quy định sẽ phù hợp hơn. Tiến tới sẽ mở rộng đối tượng tới tất cả cán bộ, đảng viên của cả hệ thống chính trị sau khi sơ kết, đánh giá, rút kinh nghiệm việc triển khai thực hiện. Làm như vậy vừa khoa học, hiệu quả lại có thể sớm đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.

Về phạm vi bao quát của Quy định, đa số ý kiến cho rằng, việc đổi mới, sáng tạo trước mắt chỉ giới hạn trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Làm như vậy là nhằm nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trước việc đề xuất các ý tưởng mới, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả, đồng thời hạn chế tối đa rủi ro hoặc chưa đủ căn cứ do làm những việc không thuộc chức năng của mình. Hơn nữa, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cũng dễ xử lý hơn đối với ý tưởng của cán bộ, đảng viên xét dưới góc độ chuyên môn. Ngược lại, một số ý kiến cho rằng đã là đổi mới, sáng tạo thì không có giới hạn. Thực tế, có những người làm trong lĩnh vực này nhưng lại có những ý tưởng đổi mới, sáng tạo có giá trị ở lĩnh vực khác. Việc giới hạn như vậy vô hình trung sẽ hạn chế đổi mới, sáng tạo cũng như khả năng đóng góp, cống hiến của cán bộ, đảng viên đối với xã hội.

Cả hai ý kiến này về bản chất chỉ khác nhau về cách tiếp cận giải quyết bài toán đặt ra mà không mâu thuẫn về quan điểm. Việc giới hạn chủ thể đổi mới, sáng tạo trong phạm vi hẹp chỉ là bước đầu nhằm mục đích sớm có được quy định để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn. Quá trình triển khai thực hiện Quy định sẽ tiếp tục mở rộng lĩnh vực đổi mới, sáng tạo ra ngoài phạm vi chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao để khuyến khích cả xã hội có nhiều đổi mới, sáng tạo có ích, làm lợi cho đất nước.

2. Quan điểm về nội dung đổi mới, sáng tạo cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có quan điểm cho rằng đã là đổi mới, sáng tạo thì không có vùng cấm, cán bộ, đảng viên được phép làm mọi việc miễn là xuất phát từ động cơ trong sáng. Ngược lại, quan điểm khác không chấp nhận đổi mới, sáng tạo vượt ra ngoài khuôn khổ các quy định của Đảng và Nhà nước. Cũng có ý kiến lại “mở” hơn, cho phép đổi mới, sáng tạo đột phá vào một số quy định của Đảng và Nhà nước nhưng không được “vượt trần” là Điều lệ Đảng và Hiến pháp.

Có thể khẳng định, các quan điểm này đều có cơ sở nhất định nhưng thiên về suy luận lô-gíc, chưa gắn với thực tế của tình hình đổi mới hiện nay. Trong mọi thời kỳ, đất nước luôn rất cần đổi mới trong mọi lĩnh vực, từ những vấn đề nhỏ nhất cho đến những vấn đề đột phá lớn mang tính chiến lược. Đổi mới, sáng tạo chính là động lực phát triển, là nhân tố quan trọng đem lại những chuyển biến mạnh mẽ, tích cực cho xã hội. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đổi mới bằng mọi giá mà phải xác định giới hạn “đỏ”. Giới hạn được xác định trong Quy định là không được xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia và đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ. Dự thảo Quy định chấp nhận đổi mới, sáng tạo đột phá vào một số quy định của Đảng và Nhà nước chậm thay đổi, đã lạc hậu không đáp ứng yêu cầu cuộc sống để giải quyết những ách tắc, những điểm nghẽn trên thực tế vì sự phát triển của đất nước. Nếu không, sẽ không có những đột phá lớn làm thay đổi tình hình theo hướng tích cực và cũng không có cơ sở thực tiễn để phát triển lý luận.

Liên quan đến thái độ của cấp ủy, người đứng đầu đối với đổi mới, sáng tạo, có quan điểm cho rằng hiện nay có rất ít cấp ủy và người đứng đầu dám ủng hộ việc đổi mới, sáng tạo của cán bộ, đảng viên. Ủng hộ cái mới, chưa từng có, nhất là những cái vượt ra khỏi khung khổ của pháp luật là điều không dễ dàng, phải có dũng khí, nên không mấy ai mạo hiểm dám đứng ra bảo vệ nó. Vì thế, có được cấp ủy, nhất là người đứng đầu hiểu được ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ và tích cực ủng hộ là điều rất quý. Do đó, lúc này cần phải khuyến khích những cấp ủy, người đứng đầu dám quyết cho chủ trương để cán bộ, đảng viên triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo của mình. Ngược lại, có quan điểm cho rằng việc cho chủ trương của cấp ủy và người đứng đầu đối với việc đổi mới, sáng tạo phải được kiểm soát chặt chẽ vì rất dễ bị lợi dụng vào mục đích cá nhân.

Cả hai quan điểm đều đúng vì có cơ sở và đây là hai mặt của một vấn đề. Trước hết, không phải vì các cấp ủy, người đứng đầu ngại cho chủ trương đối với những ý tưởng đổi mới, sáng tạo vượt ra khỏi khung khổ của các quy định, mà phải khuyến khích bằng mọi giá. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, giữa việc khuyến khích cấp ủy, người đứng đầu mạnh dạn cho chủ trương đổi mới, sáng tạo, với việc lo ngại cấp ủy, người đứng đầu lợi dụng việc cho chủ trương vào mục đích cá nhân thì nội dung khuyến khích cần được quan tâm nhiều hơn. Dự thảo Quy định đưa ra những biện pháp khuyến khích và bảo vệ cấp ủy, người đứng đầu dám mạnh dạn cho chủ trương đổi mới, sáng tạo nhưng đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm đối với các quyết định của mình.

3. Một trong những vấn đề được quan tâm là những khái niệm trong dự thảo Quy định. Trong dự thảo Quy định sử dụng 6 cụm từ và đều được giải thích cụ thể: Khuyến khích; bảo vệ; cán bộ lãnh đạo, quản lý; cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá; vì lợi ích chung; cấp có thẩm quyền. Đa số ý kiến đồng tình với việc không nhất thiết phải có các khái niệm trong Quy định mà chỉ cần giải thích từ ngữ như các văn bản của Đảng và Nhà nước hiện nay. Nhưng cũng có ý kiến đề nghị lượng hóa một số khái niệm thành các tiêu chí cụ thể để có cơ sở thực hiện thống nhất trong cả hệ thống chính trị.

Việc cụ thể hóa, lượng hóa các khái niệm là rất quan trọng và cần thiết. Đây là cơ sở để thống nhất nhận thức và hành động. Tuy nhiên, Quy định về khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo là văn bản của Đảng, là “tuyên bố chính trị” mang tính chỉ đạo, định hướng để các cơ quan chức năng của Nhà nước tiếp tục cụ thể hóa những nội dung này thành các quy định cụ thể. Hơn nữa, không thể có bộ tiêu chí “cứng” chung cho tất cả các đối tượng và phù hợp với các giai đoạn lịch sử khác nhau. Chính vì thế, không nhất thiết phải cụ thể hóa các khái niệm trong quy định mà chỉ giải thích từ ngữ để bảo đảm độ “mở”, phù hợp với các đối tượng. Căn cứ vào đó, các địa phương, ngành, lĩnh vực tiếp tục cụ thể hóa những nội dung này để thực hiện. Những nội dung cụ thể, chi tiết sẽ đưa vào hướng dẫn thực hiện sau khi Quy định được ban hành.

4. Trong dự thảo Quy định, nội dung về quy trình cho chủ trương đối với kế hoạch đổi mới, sáng tạo của cán bộ gồm 3 bước cũng được bàn luận sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều. Cách tiếp cận thứ nhất cho rằng đã là những ý tưởng mới, vượt trên cả tư duy thông thường thì không nhất thiết phải báo cáo cấp ủy, nếu báo cáo thì nhiều cấp ủy cũng không thể cho ý kiến được. Do đó, chỉ cần cán bộ, đảng viên cam kết trước cấp ủy là đổi mới, sáng tạo sẽ mang lại lợi ích lớn cho địa phương, cơ quan, đơn vị; không ảnh hưởng đến chủ quyền, an ninh quốc gia và sự tồn vong của Đảng, chế độ. Làm như vậy mới giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho ý tưởng đổi mới, sáng tạo sớm được triển khai thực hiện. Ngược lại, cách tiếp cận khác lại cho rằng đối tượng của đổi mới, sáng tạo là những việc mới, khó, chưa có tiền lệ, vì thế cần phải có quy trình xem xét, đánh giá chặt chẽ của cấp ủy, tổ chức đảng thông qua các cơ quan chuyên môn. Có như vậy mới chủ động bảo vệ được cán bộ, đảng viên, vì qua quy trình xem xét của cấp ủy sẽ góp phần hạn chế tối đa rủi ro, sai sót, đồng thời ngăn chặn những hành vi ảo tưởng, phiêu lưu, liều lĩnh, nhân danh đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá dẫn đến những hậu quả đáng tiếc.

Cả hai quan điểm trên đều có cơ sở nhưng không thể xử lý cứng nhắc mà phải thật hài hòa, bảo đảm tính khả thi. Điều này xuất phát từ chỗ đổi mới, sáng tạo không đơn giản là việc làm của cá nhân cán bộ, đảng viên, muốn triển khai thành công phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo, sự đồng thuận và tham gia tích cực của cấp ủy. Do đó, cán bộ, đảng viên phải có kế hoạch để báo cáo xin chủ trương của cấp ủy. Tuy nhiên, nếu quy trình xin chủ trương quá phức tạp, qua nhiều bước, mất nhiều thời gian sẽ không khuyến khích được đổi mới, sáng tạo. Vì thế, quy trình báo cáo cấp ủy cần tương đối đơn giản gồm 3 bước kết hợp với việc cam kết của người có ý tưởng đổi mới, sáng tạo. Làm như vậy vừa tạo được không gian tối đa cho đổi mới, sáng tạo, nhưng đồng thời cũng loại bỏ được những ý tưởng không xuất phát từ động cơ trong sáng, không có tính khả thi, hạn chế nguy cơ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

5. Nóng và có nhiều ý kiến là vấn đề người đứng đầu cấp ủy có quyền cho phép triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo dưới dạng thí điểm nếu xét thấy kế hoạch có tính khả thi trong trường hợp cấp ủy không có sự thống nhất. Không ít ý kiến băn khoăn liệu quy định như vậy có mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung dân chủ và có khả thi hay không? Và nếu không có sự đồng thuận, không được sự ủng hộ của cấp ủy thì việc cán bộ, đảng viên triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo sẽ gặp nhiều khó khăn, cản trở, khó có thể thành công.

Có thể khẳng định, đổi mới, sáng tạo, nhất là đột phá vào những nội dung đã lạc hậu, không còn phù hợp trong các quy định của Đảng và Nhà nước là vấn đề rất nhạy cảm và mạo hiểm. Hơn nữa, nhiều vấn đề đổi mới, sáng tạo thường rất khó, vượt lên tư duy của số đông, kể cả cấp ủy. Vì thế, trong nhiều trường hợp các cấp ủy thường né tránh không muốn cho ý kiến hoặc tìm cách đẩy lên cấp trên, hoặc ý kiến phân tán, không thống nhất. Trong khi đó, việc có ý kiến đối với kế hoạch đổi mới, sáng tạo của cán bộ, đảng viên lại thuộc thẩm quyền của cấp ủy đang xử lý, không được phép đẩy trách nhiệm lên trên. Trong trường hợp như vậy, Quy định buộc người đứng đầu phải thay mặt cấp ủy trả lời cán bộ, đảng viên về kế hoạch đổi mới, sáng tạo đã trình xin ý kiến mà không được phép trì hoãn. Nếu kế hoạch của cán bộ, đảng viên có tính khả thi thì người đứng đầu cấp ủy có quyền cho phép cán bộ, đảng viên triển khai dưới dạng thí điểm và phải chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên về quyết định của mình, đồng thời báo cáo lên cấp trên trực tiếp để biết.

Thực tế, trường hợp người đứng đầu sử dụng quyền tự quyết đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo khi cấp ủy không đồng thuận, có ý kiến trái ngược nhau rất hãn hữu, không thường xuyên. Tuy nhiên, khả năng này vẫn có thể xảy ra và không thể không tính tới trong Quy định. Việc cấp ủy không đồng thuận cho chủ trương trong khi người đứng đầu cấp ủy dám quyết cũng hoàn toàn dễ hiểu, bởi lẽ đổi mới, sáng tạo thường thuộc về thiểu số mà không thuộc về số đông. Trong trường hợp đó, sau khi quyết định cho chủ trương triển khai kế hoạch đổi mới, sáng tạo của cán bộ, đảng viên thì người đứng đầu phải tiếp tục trao đổi, thuyết phục để tạo được sự đồng thuận, trước hết trong thường trực cấp ủy nhằm tạo thuận lợi cho quá trình triển khai đổi mới, sáng tạo.

Cách xử lý như vậy vừa nêu cao tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu trước những đổi mới, sáng tạo có tính đột phá lớn, đồng thời góp phần khơi thông điểm nghẽn hiện nay, tạo không gian tối đa cho đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá và hoàn toàn không mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong trường hợp này, người đứng đầu cấp ủy cho chủ trương triển khai kế hoạch cũng được xem xét bảo vệ khi cán bộ, đảng viên và các thành viên tham gia thực hiện kế hoạch đổi mới, sáng tạo có rủi ro, sai sót.

6. Trong quá trình xây dựng Quy định, vấn đề khó khăn nhất không thể không làm rõ để đi đến kết luận cuối cùng là hai cách tiếp cận trái ngược nhau về đổi mới, sáng tạo. Cách tiếp cận xuất phát từ nguyên tắc thượng tôn pháp luật không cho phép đổi mới, sáng tạo đột phá vào những nội dung đã có quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong khi đó cách tiếp cận thực chứng, coi thực tế vừa là điểm xuất phát vừa là nơi kiểm chứng của lý luận lại ủng hộ quan điểm ngược lại.

Thực chất, cả hai cách tiếp cận đều không trái với các nguyên tắc của Đảng. Đổi mới, sáng tạo không đồng nghĩa với việc phủ nhận, xóa bỏ tất cả cái cũ mà chỉ xóa bỏ những cái cũ đã lạc hậu, không còn phù hợp, cản trở sự phát triển của đất nước, địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị. Khuyến khích đổi mới, sáng tạo không đồng nghĩa với việc khuyến khích cán bộ đi ngược lại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, không khuyến khích làm trái với các quy định hiện hành. Tất cả cán bộ, công chức chỉ được làm những điều mà Luật Cán bộ, công chức cho phép. Dưới góc độ công tác đảng, tất cả đảng viên phải thi hành Điều lệ Đảng. Đó là nguyên tắc mà tất cả cán bộ, đảng viên phải tuân thủ nghiêm túc.

Tuy nhiên, những cái cũ, lạc hậu, không còn phù hợp thì nhất thiết phải phá bỏ để phát triển. Sự hưng thịnh của đất nước, quốc gia, dân tộc luôn là mục tiêu tối thượng của bất kỳ sự đổi mới nào. Quy định về đổi mới, sáng tạo chỉ khuyến khích và bảo vệ những đột phá dưới dạng thí điểm vào những nội dung đã có quy định nhưng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu thống nhất hoặc không còn phù hợp với thực tế, cản trở sự phát triển. Như vậy mới có thể giải quyết được những điểm nghẽn, những khó khăn, vướng mắc mà các quy định hiện hành không thể giải quyết được. Thông qua việc triển khai thí điểm sẽ tổng kết, đánh giá và cung cấp luận cứ khoa học để bổ sung, sửa đổi chủ trương, cơ chế, chính sách và các quy định hiện hành cho phù hợp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu không cho phép đột phá vào những nội dung đã lạc hậu, cản trở sự phát triển thì sẽ không tạo được động lực cho việc xử lý những ách tắc, điểm nghẽn trong thực tế, dẫn đến hiện tượng các cơ sở âm thầm “xé rào”, xử lý “chui” những vấn đề bất cập nảy sinh, làm “nhờn” luật hoặc dẫn đến “vênh” nhau giữa Trung ương và địa phương.

Kỳ 3: Về khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung: Cơ chế nào khuyến khích đội ngũ cán bộ đổi mới, sáng tạo

Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới, đổi mới sáng tạo được định nghĩa là việc đưa ra một sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) mới hoặc một sản phẩm được cải tiến đáng kể, hoặc đưa ra và thực hiện quy trình công nghệ mới, phương pháp tiếp thị mới, một phương pháp tổ chức mới trong hoạt động kinh doanh, trong tổ chức nơi làm việc hoặc trong quan hệ với bên ngoài (OECD, 2005). Tại Khoản 16, Điều 3 Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 đưa ra khái niệm đổi mới sáng tạo (innovation) là “việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”.

Trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII) về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Đảng ta xác định: chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung.

Thuật ngữ “cơ chế” chỉ tổng hợp các phương thức, biện pháp vận hành, quản lý của một hệ thống nhất định. Từ đó có thể hiểu “cơ chế khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo” là các nguyên tắc, phương thức thực hiện để động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ đổi mới sáng tạo trong việc thực thi nhiệm vụ.

Đảng ta luôn quan tâm, coi trọng, động viên, khích lệ tinh thần thi đua đổi mới, sáng tạo trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất là trong những năm đổi mới. Các ý tưởng đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung đều xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, tập trung tháo gỡ những nút thắt, điểm nghẽn, giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc để bứt phá và góp phần quan trọng trong việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách. Đó là việc “khoán hộ” trong nông nghiệp; “cởi trói”cho doanh nghiệp; xóa bỏ “ngăn sông, cấm chợ” trong lưu thông phân phối; bỏ chế độ tem phiếu, thực hiện một giá..., góp phần thay đổi tư duy, nhận thức, chuyển đổi từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng XHCN.

Thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp lý khích lệ cán bộ, đảng viên đổi mới, sáng tạo trong thực thi nhiệm vụ. Theo Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu rõ: “… Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo, thích ứng nhanh với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín, nhất là cán bộ cấp chiến lược có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Nhiều cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có nhiều đóng góp tích cực cho đất nước, một số công trình khoa học có giá trị quốc tế. Theo Sách Trắng Khoa học và công nghệ 2015, các công bố quốc tế của Việt Nam trong 15 năm qua tăng bình quân khoảng 17%/năm, nhất là một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản…”.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo vì lợi ích chung còn một số hạn chế: Cơ chế, chính sách chưa có đột phá, chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đổi mới, sáng tạo chưa thực sự tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Vẫn còn tình trạng cán bộ sợ sai, sợ trách nhiệm nên không dám có những đổi mới sáng tạo… Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chưa có cơ chế phù hợp và đủ mạnh để khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo trong sự nghiệp chung. Chính vì vậy cơ chế, chính sách khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo cần tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, phải xác định các nguyên tắc khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo

Cơ chế khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo phải phù hợp với chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực Việt Nam; chiến lược, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ. Thể hiện trách nhiệm, thái độ và quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với việc khuyến khích, động viên cán bộ.

Cần công tâm, công bằng, công khai và minh bạch. Thành tích đổi mới, sáng tạo đến đâu có chế độ khuyến khích, động viên đến đó. Ai có thành tích, công lao trong đổi mới, sáng kiến xứng đáng đều nên được Nhà nước khen thưởng, tuyên dương, đãi ngộ, trọng dụng, ghi nhận. Cơ chế phải toàn diện cả về vật chất và tinh thần; đồng bộ trong hệ thống chính sách, được áp dụng, vận dụng thường xuyên, liên tục và nhất quán. Cơ chế phù hợp với đặc thù của từng ngành, từng lĩnh vực theo tính chất lao động, nghề nghiệp của cán bộ. Tùy theo đặc thù, đặc điểm, tính chất lao động, sản phẩm lao động, nghề nghiệp của mỗi cán bộ, Nhà nước có cơ chế đánh giá, chính sách khuyến khích đối với cán bộ chứ không hành chính hóa cơ chế khuyến khính đối với cán bộ.

Cơ chế khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo phải gắn với chế tài của Đảng và Nhà nước nhằm xử lý những cán bộ lợi dụng đổi mới, sáng tạo để phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm hoặc cố ý làm trái, vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thứ hai, phải xây dựng các tiêu chí khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo

Thực tế, những ý tưởng đổi mới, sáng tạo thường thuộc về thiểu số, vượt trước nhận thức của số đông. Chính vì vậy, để những ý tưởng đó được hiện thực hóa cần phải được sự lãnh đạo, chỉ đạo và tham gia tích cực, có sự chấp nhận, ủng hộ, bảo đảm từ cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu. Cán bộ có ý tưởng đổi mới, sáng tạo cần phải báo cáo với cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu trước khi thực hiện.

Là những đổi mới sáng tạo có tính khác biệt, chưa có tiền lệ, tư duy, cách làm mới, vượt qua rào cản bảo thủ, quan liêu, tư duy máy móc, xơ cứng, cũ kỹ và các luật lệ, chế định thông thường.

Có tính khả thi, phù hợp với chức năng nhiệm vụ được giao, với điều kiện thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Được áp dụng ngay trong hoạt động công tác của cá nhân, đơn vị và có khả năng phổ biến rộng rãi trong đơn vị, cơ quan, tổ chức của cán bộ.

Có tính hiệu quả, mang lại lợi ích kinh tế hoặc lợi ích xã hội: nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác; nâng cao ý thức trách nhiệm cán bộ trong cơ quan, tổ chức; cải thiện điều kiện làm việc, công tác; bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người…

Thứ ba, cần tạo điều kiện, hình thức khuyến khích động viên cán bộ

Xây dựng môi trường và điều kiện làm việc thúc đẩy cán bộ đổi mới, sáng tạo trong khi thực thi nhiệm vụ. Môi trường làm việc dân chủ, thân thiện, tôn trọng, không đố kị, tin tưởng lẫn nhau để đưa ra ý tưởng và cộng tác thực hiện ý tưởng. Phương tiện làm việc đầy đủ, hiện đại, thông tin và các nội dung công việc được công khai, minh bạch, rõ ràng.

Thực hiện tốt chính sách về tiền lương và các chế độ đãi ngộ khác đối với người có đề xuất đổi mới, sáng tạo. Tiền lương phải tương xứng với nhiệm vụ, trách nhiệm và cống hiến của cán bộ, trở thành công cụ, động lực thúc đẩy tăng năng suất lao động và hiệu suất công tác; thúc đẩy cán bộ nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Cán bộ có đổi mới, sáng tạo, đặc biệt có tác động đến sự phát triển của ngành, lĩnh vực được xét nâng lương vượt bậc tùy theo hiệu quả đem lại.

Thúc đẩy việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để nâng cao khả năng đổi mới, sáng tạo, ưu tiên luân chuyển, bố trí, sử dụng ở các vị trí công tác phù hợp đối với những người có đề xuất đổi mới, sáng tạo để họ có cơ hội phát huy năng lực. Chương trình bồi dưỡng cần được xây dựng phù hợp với từng nhóm cán bộ (lãnh đạo, quản lý; tham mưu xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách; thực thi thừa hành) với các nội dung: Trang bị phương pháp luận, tầm nhìn và kỹ năng nghề nghiệp, quản lý; nâng cao khả năng giải quyết vấn đề, tình huống, bồi dưỡng các kỹ năng thảo luận, thuyết trình, viết, kỹ năng giao tiếp…

Kết hợp tiêu chí thâm niên công tác và công lao thành tích đổi mới, sáng tạo trong việc đề bạt, đánh giá cán bộ có thành tích đổi mới, sáng tạo vào những vị trí lãnh đạo, quản lý. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách tôn vinh, khen thưởng thể hiện dưới nhiều hình thức. Đồng thời có cơ chế bảo vệ cán bộ có đổi mới, sáng tạo trong hoạt động thực thi nhiệm vụ.

Thứ tư, quy định rõ trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu trong việc khuyến khích động viên cán bộ đổi mới, sáng tạo

Ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ hiện thực hóa được hay không phụ thuộc rất nhiều vào vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu. Điều đó thể hiện ở chỗ cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu có ghi nhận những đổi mới, sáng tạo của cán bộ hay không, có tạo điều kiện cho cán bộ phát huy những ý tưởng sáng tạo, áp dụng vào thực tiễn không? Có bảo vệ những sáng kiến, ý tưởng sáng tạo khi bị kẻ xấu lợi dụng hay không?... Đề cao trách nhiệm từng cơ quan, tổ chức, người đứng đầu trong việc bảo đảm các điều kiện để các ý tưởng đổi mới, sáng tạo được triển khai ngăn chặn những kẻ xấu vì lợi ích cá nhân mà gây ra những thiệt hại. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đúng đầu cơ quan, đơn vị phải biết dùng người, tôn trọng, ủng hộ thực hiện ý tưởng đổi mới, sáng tạo.

Tóm lại, xây dựng cơ chế khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo là nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự phát triển. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực, niềm tin cho cán bộ đổi mới, sáng tạo, tạo nên sự bứt phá, góp phần mang lại lợi ích thiết thực cho đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị, Nhân dân.

Kỳ 4: Trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá

1. Tin tưởng, tôn trọng mọi ý tưởng của cán bộ

Cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá (gọi tắt là đổi mới, sáng tạo) thông thường là những người sẵn sàng hy sinh lợi ích của bản thân để phục vụ lợi ích chung. Mỗi ý tưởng đổi mới, sáng tạo thường xuất phát từ đam mê, khát vọng cống hiến cho công việc, cho xã hội. Để phát huy tiềm năng, trí tuệ, sự nhiệt huyết và khích lệ cán bộ mạnh dạn đề xuất ý tưởng đổi mới, sáng tạo thì sự tin tưởng, tôn trọng của cấp ủy có giá trị như một lời hiệu triệu có sức lay động mạnh mẽ đến trái tim cán bộ.

Lòng tin, sự tôn trọng của cấp ủy, tổ chức đảng không phải là cái gì trừu tượng, khó hiểu, mà rất cụ thể. Cấp ủy, tổ chức đảng với vai trò hạt nhân phải biết tôn trọng, nhìn nhận, đánh giá đúng năng lực của cán bộ. Cấp ủy là người khởi nguồn và truyền cảm hứng về sự tin tưởng tới cán bộ; luôn động viên, khích lệ, khơi dậy lý tưởng, đam mê, khát vọng sáng tạo, cống hiến. Mọi đề xuất của cán bộ thể hiện sự tìm tòi, sáng tạo đều cần được lắng nghe, trân trọng. Khi cấp ủy tôn trọng tính cách, khả năng, phẩm chất của cán bộ thì giữa cấp ủy và cán bộ có sự chân thành chia sẻ, thấu hiểu và đồng hành cùng nhau sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách từ khi đề xuất đến thực hiện thành công ý tưởng đổi mới, sáng tạo. Đồng thời, cấp ủy là nhân tố kích hoạt những tố chất trong mỗi cán bộ như khát vọng vươn lên, ý chí vượt qua thử thách, nhu cầu khẳng định bản thân biến ý tưởng nhỏ thành ý tưởng lớn, biến những suy nghĩ thành hành động thiết thực, có ích cho xã hội. Khi tin tưởng cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng mạnh dạn giao những trọng trách, nhiệm vụ quan trọng, công việc khó, yêu cầu cao để cán bộ được thể hiện năng lực tư duy, khả năng sáng tạo của mình. Sự tin tưởng còn thể hiện trong trao quyền tự quyết cho cán bộ khi triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo. Sự tin tưởng, tôn trọng còn là một giải pháp hiệu quả thúc đẩy cán bộ vượt qua khó khăn, có những đề xuất sáng tạo, những quyết định đúng đắn, táo bạo để đạt mục tiêu đề ra.

2. Chủ động xem xét, quyết định chủ trương

Ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ thường là những ý tưởng mới, chưa có tiền lệ, thậm chí là vượt ra khỏi khuôn khổ các quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước. Chính vì vậy, một số cấp ủy, tổ chức đảng rất “ngại” cho chủ trương để cán bộ thực hiện. Điều này dễ hiểu bởi lẽ không phải cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu nào cũng có đủ trình độ, hiểu biết để đánh giá được giá trị, sự phù hợp và hiệu quả của ý tưởng đổi mới, sáng tạo mà cán bộ đề xuất. Khi đồng ý cho cán bộ triển khai thì cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy là người đầu tiên phải chịu trách nhiệm. Do vậy, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy thường có xu hướng “đẩy quả bóng” trách nhiệm cho cấp trên hoặc cố tình kéo dài thời gian trả lời cán bộ, nhất là đối với những đổi mới, sáng tạo có nội dung không thuộc quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoặc đã có quy định nhưng lạc hậu, không còn phù hợp với thực tế. Thậm chí, có cấp ủy còn tìm các lý do khác nhau để ngăn cản, không cho cán bộ triển khai ý tưởng.

Vì thế cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy phải phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm trong việc xem xét cho ý kiến đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ. Trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy là phải căn cứ vào chức năng, thẩm quyền của mình để đánh giá, xem xét kế hoạch đổi mới, sáng tạo của cán bộ có xuất phát từ động cơ trong sáng hay không, có gì mới, có đem lại lợi ích cho cơ quan, đơn vị, địa phương, đất nước hay không để cho chủ trương thực hiện. Để có thể đưa ra quyết định đúng thì cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy trong thẩm quyền của mình có thể chỉ đạo tổ chức hội thảo khoa học, thành lập hội đồng, xin ý kiến chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan để đánh giá trước khi cho chủ trương. Việc thông qua các hội đồng chuyên môn, các hội thảo và xin ý kiến chuyên gia, cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy sẽ có thêm căn cứ để tự tin đưa ra chủ trương. Đây là cách làm khoa học vừa hạn chế tối đa những rủi ro, sai sót có thể xảy ra nhưng đồng thời không bỏ sót những ý tưởng đổi mới, sáng tạo có ích cho cộng đồng, xã hội.

Khi cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền đồng ý về chủ trương cho thực hiện ý tưởng đổi mới, sáng tạo thì đồng thời xác định hình thức triển khai thí điểm hay không thí điểm và các nguồn lực, các cơ quan, đơn vị phối hợp, hỗ trợ cho quá trình thực hiện. Đối với kế hoạch đổi mới, sáng tạo (không thí điểm) thuộc những việc chưa có quy định hoặc đã có quy định của Đảng, Nhà nước nhưng không còn phù hợp, chồng chéo, thiếu thống nhất thì cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cho phù hợp để tổ chức thực hiện. Những việc chưa có tiền lệ để giải quyết những vấn đề khó khăn, tồn đọng kéo dài mà không dẫn đến hậu quả nghiêm trọng thì cấp ủy chủ động cho cơ chế riêng như thực hiện thí điểm. Việc thực hiện thí điểm sẽ được cấp ủy có thẩm quyền xác định rõ quy mô, phạm vi, thời gian, nguồn lực và vừa làm vừa hoàn thiện, từng bước mở rộng dần. Đối với những việc có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, cấp ủy, tổ chức đảng chủ động trả lời bằng văn bản để cán bộ không thực hiện và không được đề xuất vượt cấp.

Trong quá trình xem xét ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ mà vượt thẩm quyền hoặc không có khả năng đánh giá đúng thì cấp ủy quản lý cán bộ có thể đề xuất với cấp có thẩm quyền để xin ý kiến. Cấp ủy có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét kỹ lưỡng, nghiêm túc và trả lời bằng văn bản trong vòng 30 ngày. Những vấn đề khó, phức tạp, cấp ủy cần nhiều thời gian thẩm định thì có thể trả lời trong 45 ngày và không quá 90 ngày với trường hợp đặc biệt.

Cấp ủy, tổ chức đảng chủ động chỉ đạo, quán triệt cơ quan trực tiếp quản lý cán bộ, các bộ phận, đơn vị liên quan phối hợp, hỗ trợ triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo có hiệu quả. Quá trình thực hiện ý tưởng đổi mới, sáng tạo cấp ủy, tổ chức đảng cần thường xuyên theo dõi sát để xem xét, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế, nếu phát hiện vấn đề mới nảy sinh, những khó khăn, vướng mắc cần kịp thời tháo gỡ hoặc có quyết định phù hợp. Tuy nhiên, cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định rõ trách nhiệm và hạn chế tối đa việc quyết định dừng hoặc hủy bỏ chủ trương cho phép cán bộ triển khai đổi mới, sáng tạo khi chưa đến thời điểm đánh giá kết quả. Quá trình thực hiện, cấp ủy, tổ chức đảng luôn chủ động báo cáo tình hình cho cấp ủy cấp trên trực tiếp. Đồng thời, chịu trách nhiệm về các quyết định của mình đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo của cán bộ.

3. Xây dựng môi trường thuận lợi

Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của mình nhiều lần nhấn mạnh đến đổi mới với tư duy cởi mở: “Chẳng có việc gì là không thể đổi mới” (3); “Đừng sợ cái mới quá. Cái gì mới thì lần đầu cũng lạ… nhưng sau rồi quen” (4). Muốn có môi trường thuận lợi, trước hết cấp ủy, tổ chức đảng phải thay đổi tư duy, cần mở rộng dân chủ, tạo hành lang tự do tư tưởng, không bị trói buộc bởi tư duy cũ, lỗi thời, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển. Mở rộng dân chủ, tự do đổi mới, sáng tạo không thể chung chung mà phải được thể hiện bằng cơ chế, chính sách cụ thể. Cấp ủy các cấp, các ngành cần rà soát lại một cách tổng thể hệ thống chính sách liên quan tới thúc đẩy đổi mới, sáng tạo và bước đầu xây dựng cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá trong hệ thống chính trị. Trên cơ sở rà soát, mạnh dạn loại bỏ những rào cản, sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các chính sách trong các quy định của Đảng, Nhà nước; điều chỉnh, bổ sung, thay thế bằng những chính sách mới, phù hợp với tình hình mới.

Để đổi mới, sáng tạo trở thành việc làm thường xuyên cần hoàn thiện thể chế để tạo ra môi trường làm việc hài hoà về lợi ích giữa đổi mới sáng tạo với dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Các cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm lãnh đạo, phối hợp các cơ quan liên quan xây dựng các cơ chế, chính sách khuyến khích, bảo vệ đủ mạnh để tạo động lực, niềm tin cho đội ngũ cán bộ phát huy tối đa sức sáng tạo, khả năng cống hiến cho đất nước, không bị nhụt chí trước khó khăn, thách thức.

Một môi trường tốt để khích lệ cán bộ đổi mới, sáng tạo cần có sự đồng tình, sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền, các cơ quan trong hệ thống chính trị. Trong quá trình triển khai nếu khó khăn, vướng mắc thì có giải pháp giải quyết ngay, bảo đảm hoàn thành mục tiêu đề ra nhưng phải luôn bảo đảm đoàn kết nội bộ.

Tạo môi trường làm việc trong sáng, dân chủ, thân thiện, tôn trọng, cảm thông, tin tưởng, cộng tác cùng nhau cho cán bộ. Môi trường làm việc đó sẽ khơi dậy tinh thần sáng tạo, khích lệ sự phản biện, trao đổi trong công việc, không đố kỵ và cùng tương trợ, chia sẻ khó khăn, thuận lợi trong mỗi cán bộ. Bên cạnh đó, cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, các cơ quan, đơn vị cần hỗ trợ các nguồn lực, trang thiết bị cần thiết để cán bộ triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo.

Để xây dựng, hiện thực hóa được môi trường như vậy, đòi hỏi tầm nhìn và sự quyết tâm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, các cơ quan trong cả hệ thống chính trị và sự đoàn kết, nhất quán trong tổ chức thực hiện từ Trung ương tới địa phương.

4. Không thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm bảo vệ cán bộ

Trong trường hợp có rủi ro, sai sót, cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy cần quyết định đúng, hiệu quả các biện pháp bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, bởi trên thực tế không có vinh quang, chiến thắng nào mà không có nước mắt. Tấm huân chương còn có mặt trái huống hồ đổi mới, sáng tạo là một việc rất mới, rất khó, vượt trên cả tư duy thông thường. Vì thế, rủi ro, sai sót khó có thể tránh khỏi. Nếu không chấp nhận rủi ro, sai sót như một thuộc tính thì chúng ta mãi mãi không có đổi mới, sáng tạo.

Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy có trách nhiệm đứng ra bảo vệ cán bộ không chỉ là trách nhiệm đối với cá nhân cán bộ mà còn là trách nhiệm của một tổ chức đối với một người dám hy sinh lợi ích riêng, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì địa phương, cơ quan, đơn vị, rộng hơn nữa là vì đất nước. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là lương tâm, là cách đối xử với đồng chí của mình. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy là người cho chủ trương để cán bộ đổi mới, sáng tạo triển khai ý tưởng của mình nên họ phải có trách nhiệm bảo vệ cán bộ khi có rủi ro, sai sót. Bảo vệ cán bộ trong trường hợp này cũng chính là bảo vệ thanh danh, uy tín của Đảng, nuôi dưỡng, ươm mầm những tài năng tương lai của đất nước.

Trong sự nghiệp đổi mới của Đảng, không ít trường hợp cán bộ đổi mới, sáng tạo phải trả giá bằng cả sinh mệnh chính trị của mình và nhiều tập thể cấp ủy phải chịu xử lý kỷ luật… Đa số các ý tưởng đổi mới, sáng tạo xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, thậm chí có ý tưởng vượt qua tư duy hiện tại, đột phá vào nội dung không còn phù hợp, lạc hậu. Đồng thời, quá trình đổi mới sáng tạo là một hành trình dài, nhiều gian truân, có sự mâu thuẫn, giằng co giữa một bên là những nguyên tắc, quy định và một bên là sự đòi hỏi phải thay đổi hoặc xóa bỏ cái cũ, lạc hậu để phát triển… Do đó, nếu cấp ủy đồng ý ra chủ trương khuyến khích và bảo vệ sẽ dẫn tới vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, vượt thẩm quyền cho phép, vượt qua pháp luật, thậm chí bị buộc tội đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng. Vì thế, nhiều cấp ủy sợ trách nhiệm, có xu hướng thoái thác, đùn đẩy, né tránh; sợ cấp trên, cấp dưới phê phán nên tìm cách ngãng ra, “đẩy quả bóng” ý tưởng đổi mới, sáng tạo cho cấp trên hoặc người khác quyết định.

Để hành trình đổi mới, sáng tạo trở thành lối đi thường xuyên, thuận lợi, cấp ủy, tổ chức đảng nên sớm trả lời cán bộ có được làm hay không, có vi phạm hay không, nhất là không được thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm trong bảo vệ cán bộ vì lợi ích chung trong cả trường hợp có sai sót. Trước mỗi việc khó của cán bộ đổi mới, sáng tạo, cấp ủy, tổ chức đảng phải xây dựng tâm thế không tìm cách “đá bóng” trách nhiệm sang cho người khác, cho cấp trên mà cùng suy nghĩ, tham mưu tìm hướng giải quyết.

Trong quá trình thực hiện, khi cán bộ có sai sót, cấp ủy, tổ chức đảng thống nhất quan điểm lãnh đạo, chỉ đạo, chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng đánh giá động cơ, tính chất, mức độ, nguyên nhân, hậu quả để quyết định các hình thức bảo vệ phù hợp, đánh giá khách quan, toàn diện khi thấy cán bộ cần được bảo vệ hoặc nhận được yêu cầu của cán bộ. Trường hợp cán bộ dám tiên phong làm những việc mới, khó, phức tạp, nhiều thách thức, những việc chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng không còn phù hợp cần phải được bảo vệ đặc biệt như miễn hoàn toàn trách nhiệm, giảm nhẹ các hình thức kỷ luật, không ghi nội dung sai sót vào hồ sơ cán bộ, hồ sơ đảng viên. Cách bảo vệ này là động lực khích lệ cán bộ tự tin dấn thân và không lo lắng bị ảnh hưởng tới sự nghiệp chính trị.

Đối với trường hợp cần bảo vệ cán bộ mà cấp ủy không đủ năng lực hoặc không thuộc thẩm quyền giải quyết thì phải đề nghị cơ quan chức năng cấp trên có biện pháp bảo vệ. Quá trình bảo vệ, cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền phải luôn song hành, ủng hộ kịp thời. Cấp ủy, tổ chức đảng không né tránh mà kịp thời ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi lạm quyền, lộng quyền của người đứng đầu trong việc cho chủ trương đối với ý tưởng đổi mới, sáng tạo; hành vi lợi dụng việc khuyến khích và bảo vệ để trục lợi, phục vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, dung túng, bao che cho những hành vi sai phạm.

Có nhiều nguyên nhân khiến không ít cán bộ không dám đổi mới, sáng tạo, không dám dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân vì thiếu cơ chế bảo vệ, nhất là trong trường hợp có sai sót. Do vậy, cấp ủy, tổ chức đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan tiếp tục ban hành, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện thể chế, quy định để bảo đảm hành lang pháp lý bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá.

Kế thừa quan điểm lý luận và kết quả thực tiễn 35 năm đổi mới, để khơi dậy, khích lệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá thì thời gian tới cấp ủy và tổ chức đảng các cấp cần đóng vai trò, trách nhiệm quan trọng trong việc này.

-----

(1), (2) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 5, tr.12.

(3) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 12, tr.527.

(4) Hồ Chí Minh: Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, NXB Văn hóa - Văn nghệ, 2012, tr.401.


Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất