“Quyền im lặng” của người bị buộc tội
Ảnh minh hoạ

“Quyền im lặng” trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tuy hệ thống pháp luật quốc tế không có định nghĩa về “quyền im lặng” trong bất kỳ văn bản nào song một số công ước quốc tế, văn kiện quốc tế về quyền con người đã nhắc đến nội hàm của quyền này.

Tại Điều 12 của “Tuyên bố về bảo vệ mọi người khỏi bị tra tấn và các hình thức đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1975” có nêu: “Bất kỳ lời khai nào đã được xác lập mà có được bởi kết quả của tra tấn hoặc đối xử hay trừng phạt một cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác không thể được viện dẫn làm bằng chứng chống lại người có liên quan hoặc chống lại bất kỳ người nào khác trong bất kỳ thủ tục tố tụng nào”. Như vậy, có thể hiểu, lời khai khi bị ép cung, mớm cung, dùng nhục hình không có giá trị về pháp lý.

"Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1984" một lần nữa khẳng định: "Lời khai của người bị tra tấn, bị dùng nhục hình, bị đối xử vô nhân đạo không có giá trị chứng minh trong quá trình điều tra vụ án".

Điều 14 của “Các quy tắc tiêu chuẩn tối thiếu của Liên hiệp quốc về hoạt động tư pháp đối với người vị thành niên năm 1985 (các quy tắc Bắc Kinh)” nêu: “Trong bất kỳ trường hợp nào, thủ tục xét xử người chưa thành niên phạm tội cũng đều phải tuân theo những tiêu chuẩn tối thiểu được áp dụng chung cho bất cứ bị can nào theo một thủ tục được biết tới là “thủ tục pháp lý cần thiết”. Theo thủ tục pháp lý này, một sự “xét xử công bằng và chính đáng” phải có những biện pháp bảo vệ cơ bản như quyền suy đoán vô tội, quyền đưa ra nhân chứng, vật chứng, quyền được biện hộ trước tòa, quyền được im lặng, quyền được nói lời cuối cùng trong một phiên xét xử, quyền kháng cáo...”.

“Quyền im lặng” được áp dụng phổ biến ở các nước có mô hình tố tụng tranh tụng của hệ thống thống luật, sau đó tiếp tục ảnh hưởng tới một số quốc gia theo mô hình tố tụng thẩm vấn của hệ thống luật lục địa. Ở mô hình tố tụng tranh tụng, vụ án hình sự được coi như tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên nên có sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội, cho nên có sự nhấn mạnh vai trò và năng lực tố tụng của bên bị buộc tội, như quyền thu thập chứng cứ, quyền bào chữa, quyền im lặng… Song nội hàm và phạm vi áp dụng “quyền im lặng” ở các quốc gia này cũng không hoàn toàn giống nhau và đều không phải là quyền tuyệt đối mà nó có thể bị giới hạn trong những hoàn cảnh cụ thể. Chẳng hạn, ngay tại Mỹ và Đức, thì “quyền im lặng” được ghi nhận nhưng không có nghĩa là loại trừ nghĩa vụ khai báo, hay như ở Nhật thì “quyền im lặng” được hiểu là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của luật sư… Như vậy, “quyền im lặng” bắt nguồn từ nguyên tắc suy đoán vô tội, được coi là một thành tựu tiến bộ của nền tư pháp nhân loại, nhưng việc tiếp thu quyền này vào pháp luật của mỗi quốc gia cũng ở các mức độ khác nhau phụ thuộc vào mô hình tố tụng truyền thống cũng như điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của quốc gia đó.

“Quyền im lặng” trong pháp luật Việt Nam

Đối với “quyền im lặng” của người bị buộc tội thì pháp luật TTHS của Việt Nam trước kia cũng như trong Bộ luật TTHS năm 2015 hiện hành không quy định một cách trực tiếp, nguyên nghĩa mà quy định một cách gián tiếp thể hiện tinh thần và nội dung của quyền này. Điều này hoàn toàn phù hợp với mô hình TTHS, bản chất Nhà nước xã hội chủ nghĩa và điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội của nước ta và cũng hoàn toàn phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Các Bộ luật TTHS trước đây đều quy định “người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai”. Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức ghi nhận “người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”.

Như vậy, kể cả quy định của Bộ luật TTHS trước đây cũng như Bộ luật TTHS hiện hành đều cho người bị buộc tội có quyền lựa chọn khai báo hoặc không khai báo trước cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu họ tự nguyện trình bày những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội của bản thân hoặc tự nhận mình có tội thì cơ quan tiến hành tố tụng vẫn ghi nhận lời khai đó. Bên cạnh đó, pháp luật hình sự của Việt Nam từ trước đến nay đều quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng; các cơ quan tiến hành tố tụng không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội và chỉ được dùng làm chứng cứ khi nó phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; người bị buộc tội không phải chịu trách nhiệm hình sự vì lý do không khai báo, không khai báo cũng không bị coi là tình tiết làm tăng trách nhiệm hình sự, ngược lại khai báo thành khẩn lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Cùng với các quy định về quyền bào chữa của người bị buộc tội như đã phân tích ở trên, có thể nói Bộ luật TTHS năm 2015 đã ghi nhận tương đối đầy đủ nội dung của “quyền im lặng”. Điều đó thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người nói chung và công tác cải cách tư pháp nói riêng.

Một số vấn đề đặt ra trong điều tra vụ án hình sự

Với các quy định mới của Bộ luật TTHS năm 2015 liên quan đến “quyền im lặng” nêu trên, để bảo đảm tốt quyền con người nói chung, quyền của người bị buộc tội nói riêng, cơ quan điều tra cần quán triệt thực hiện một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần thống nhất nhận thức các quy định về quyền khai báo của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra

Theo cách hiểu chung nhất thì "quyền im lặng" là quyền không khai báo khi không có sự tư vấn, chứng kiến của luật sư. Nhưng “im lặng” không đồng nhất với “không khai báo” và hoàn toàn không được hiểu là không khai báo bất cứ điều gì trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng. Như vậy, im lặng chỉ được thực hiện trong một giới hạn nhất định, đó là khi chưa có người bào chữa thì người bị buộc tội sẽ có quyền không khai báo bất kỳ điều gì liên quan đến vụ việc, vụ án. Kể cả trong trường hợp có sự chứng kiến của người bào chữa thì họ cũng không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội.

Như vậy, điều tra viên phải nhận thức rõ rằng, pháp luật tố tụng hiện hành của Việt Nam không có quy định “quyền im lặng” như pháp luật của một số quốc gia khác; song cũng phải nắm rõ những điểm mới về nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội để áp dụng đúng đắn trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội, điều tra viên phải giải thích rõ cho họ biết về quyền và nghĩa vụ của mình, nhấn mạnh rõ quyền im lặng không loại trừ quyền khai báo; cảm hóa, giáo dục họ khai báo thành khẩn vừa là thực hiện quyền tự bào chữa, bảo vệ chính mình, vừa để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đối với cơ quan an ninh điều tra, hoàn toàn có thể áp dụng quy định để giữ bí mật điều tra, từ chối sự tham gia của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án xâm phạm an ninh quốc gia.

Thứ hai, cơ quan điều tra các cấp cần đổi mới tư duy tố tụng trong quá trình điều tra vụ án

Bộ luật TTHS năm 2015 tiếp tục giữ quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, theo đó Điều 15 quy định: "Cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội; người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội". Quy định nêu trên cũng là một cách công nhận gián tiếp “quyền im lặng” của người bị buộc tội. Điều đó có nghĩa là sau khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra và truy tố, xét xử vụ án, cho dù bị can, bị cáo có khai báo hay không thì các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn phải có trách nhiệm chứng minh sự thật của vụ án. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, cơ quan điều tra có vai trò hết sức quan trọng và chủ yếu trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh sự thật của vụ án. Vì vậy, cơ quan điều tra phải quán triệt nguyên tắc suy đoán vô tội, trọng chứng hơn trọng cung; khắc phục triệt để biểu hiện đem “nguyên tắc suy đoán có tội” thay cho “nguyên tắc suy đoán vô tội” trong quá trình chứng minh tội phạm. Đây phải được xác định là việc thay đổi tư duy tố tụng mang tính căn bản và là đòi hỏi khách quan trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ điều tra viên và tăng cường điều kiện vật chất cho cơ quan điều tra

Xuất phát từ thực trạng đội ngũ điều tra viên hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đòi hỏi cơ quan điều tra các cấp phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng mới có thể đáp ứng được yêu cầu công tác điều tra theo tư duy tố tụng có nhiều điểm mới mà Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định. Việc nâng cao chất lượng trước hết ở chỗ cần tổ chức tập huấn để điều tra viên nắm vững các quy định của pháp luật về điều tra để thực hiện cho đúng; tiếp đó là nâng cao kỹ năng phát hiện, thu thập, phân tích, đánh giá chứng cứ và cuối cùng là các kỹ năng bổ trợ cần thiết khác như ngoại ngữ, tin học, pháp luật quốc tế… Tăng cường điều kiện vật chất nhất là việc trang bị các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ công tác khám nghiệm hiện trường, giám định, thu thập dữ liệu điện tử để cơ quan điều tra có đủ năng lực thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm.

Việc mở rộng quyền của người bị buộc tội trong đó có “quyền im lặng” mặc dù vẫn còn có những quan điểm khác nhau về sự phù hợp với điều kiện dân trí, nhận thức và truyền thống pháp lý của nước ta, nhưng không thể phủ nhận được tính tiến bộ của nó, phù hợp với xu thế phát triển chung của nhân loại. Trước mắt, để thực hiện các quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, cơ quan điều tra, điều tra viên cần phải đổi mới về tư duy cũng như cách thức tiến hành các hoạt động điều tra để đảm bảo rằng dù bị can không khai hoặc khai báo không đúng sự thật vẫn xác định được sự thật vụ án, đảm bảo quyền của bị can, người bị buộc tội.

Ở nước ta, “quyền im lặng” không được quy định cụ thể trong luật. Bộ luật TTHS năm 2015 không nêu khái niệm về “quyền im lặng”, nhưng đã cụ thể hóa một số nguyên tắc cơ bản về quyền con người, quyền công dân của Hiến pháp năm 2013 như: Nguyên tắc “Suy đoán vô tội” (Điều 13); “Xác định sự thật của vụ án” (Điều 15); “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự” (Điều 16); “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (Điều 26). Điều 59 đến Điều 62 BLTTHS năm 2015 quy định quyền của người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”. Quyền này được thể hiện xuyên suốt từ khi bị bắt, bị khởi tố cho đến xét xử. 

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất