Kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương - Thực trạng, vấn đề và giải pháp

1. Có thể nói, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương chính là giúp cho cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện thấy được những ưu điểm, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, đúng đắn để phát huy, nhân rộng và những khuyết điểm, hạn chế, bất cập để điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện, nhằm làm cho các nghị quyết phù hợp với sự vận động của thực tiễn, có sức sống trong thực tiễn.

Như vậy, phải bắt đầu kiểm tra từ khâu nhận thức đúng đắn về nghị quyết. Mỗi cán bộ, đảng viên phải hiểu đầy đủ, thấu đáo nghị quyết, từ đó, xây dựng cho bản thân mình một kế hoạch hành động phù hợp, kiên trì, kiên quyết thực hiện theo chương trình hành động hoặc theo kế hoạch. Do đó, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết bao gồm hai khâu cơ bản, quan trọng nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là nhận thức và hành động. Nhận thức đúng là cơ sở cho hành động đúng; hành động đúng tạo niềm tin, tạo động lực để nhận thức đầy đủ, toàn diện hơn.

Kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương chính là công tác trực tiếp và thường xuyên của các cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên trước hết là cán bộ chủ chốt, đặc biệt là của người đứng đầu, tổ chức đảng các cấp. Theo đó, cấp uỷ cấp trên (huyện uỷ, quận uỷ, tỉnh uỷ, thành uỷ) là cấp thực hiện tốt nhất chức năng kiểm tra (có tổ chức bộ máy, cán bộ tham mưu, giúp cấp uỷ về công tác kiểm tra); cấp uỷ cơ sở (đảng uỷ, chi uỷ) có nhiệm vụ tổ chức, quán triệt trực tiếp nội dung nghị quyết cho đảng viên, đồng thời xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể thực hiện nghị quyết sát hợp thực tế địa phương và đôn đốc thực hiện kế hoạch đề ra. 

Thực tế cho thấy, những nơi cấp uỷ chú trọng đổi mới, tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện nghị quyết thì nơi đó phong trào cách mạng của quần chúng sôi nổi, có bước tiến vững chắc. Như vậy, vai trò của cấp uỷ trong kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương là rất quan trọng.

2
. Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã tiến hành kiểm tra 243.681 tổ chức đảng (tăng 34,35% so với nhiệm kỳ Đại hội X), trong đó: 

Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiểm tra 69 cấp uỷ và tổ chức đảng trực thuộc Trung ương. Cấp ủy các cấp kiểm tra đối với 243.612 tổ chức đảng. Nội dung kiểm tra tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện: Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, chương trình công tác của cấp mình và cấp trên; việc thực hiện quy chế làm việc của cấp ủy, công tác cán bộ, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, quy chế dân chủ ở cơ sở, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp; bảo đảm quốc phòng, an ninh; thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Trong đó, tập trung kiểm tra việc lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", với trọng tâm là kiểm tra việc khắc phục những vấn đề đã kết luận sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình, việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, công tác cán bộ và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách và mua sắm tài sản công; việc thực hiện Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. 

Năm 2017, Ban Bí thư đã triển khai kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ tại 10 tỉnh uỷ, thành uỷ, 3 ban cán sự đảng bộ, ngành và 2 đơn vị sự nghiệp Trung ương.

Qua kiểm tra cho thấy, nhiều cấp ủy, tổ chức đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc học tập, quán triệt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, giúp cán bộ, đảng viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về thực trạng và nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ đó, xác định rõ việc thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII là nhiệm vụ cần thiết, cấp bách của các cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy đã xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch khắc phục, sửa chữa yếu kém, khuyết điểm của tập thể và cá nhân được chỉ ra qua kiểm điểm, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt trong quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên; đánh giá, bố trí, sắp xếp lại cán bộ theo kết quả kiểm điểm, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ; thay thế, điều chuyển công tác một số cán bộ chủ chốt ở địa phương không hoàn thành nhiệm vụ… góp phần chủ động chuẩn bị nhân sự cấp uỷ, chính quyền, cán bộ chủ chốt cho khoá tiếp theo. 

Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy các cấp đã chỉ rõ những ưu điểm để phát huy, chấn chỉnh những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, vi phạm trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định của Trung ương đối với các tổ chức đảng được kiểm tra, đồng thời chỉ đạo các tổ chức đảng có liên quan, cơ quan chức năng rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế, các văn bản quy phạm pháp luật còn bất cập, còn thiếu, cho phù hợp với thực tế. Một số địa phương đã phát hiện sai phạm và đề nghị cơ quan chức năng thu hồi hàng chục nghìn m2 đất và nộp ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng.

Cấp uỷ các cấp đã kiểm tra 1.167.693 đảng viên (tăng 7,15% so với nhiệm kỳ Đại hội X). Nội dung kiểm tra chủ yếu về việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ; đoàn kết nội bộ; chấp hành quy chế làm việc; việc triển khai, quán triệt thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội; việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của địa phương; chương trình xây dựng nông thôn mới; việc thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, thực hiện chính sách an sinh xã hội; việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí... Một số nơi, tập trung kiểm tra các lĩnh vực phức tạp dễ phát sinh vi phạm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản công, công tác quản lý và sử dụng đất đai, quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản, lĩnh vực tư pháp... Qua kiểm tra, kết luận 8.485 đảng viên có khuyết điểm, vi phạm; phải thi hành kỷ luật 2.057 đảng viên; đã thi hành kỷ luật 1.818 đảng viên vi phạm.

Trong nhiệm kỳ Đại hội XI, ủy ban kiểm tra các cấp đã kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm 15.911 tổ chức đảng và 55.250 đảng viên (tăng 0,88% tổ chức, giảm 24,71% đảng viên so với nhiệm kỳ X). Nội dung kiểm tra tập trung vào việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, quy định của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và của cấp mình, quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ… Trong đó:

Ủy ban Kiểm tra Trung ương kiểm tra 13 tổ chức và 33 đảng viên (giảm 76% tổ chức và 74% đảng viên so với nhiệm kỳ X). Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi phạm; trong đó có vi phạm phải đề nghị thi hành kỷ luật 3 tổ chức bằng hình thức khiển trách; thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6).

Ủy ban kiểm tra các địa phương, đơn vị kiểm tra 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng viên, trong đó có 24.231 cấp uỷ viên các cấp (chiếm 43,88%). Nội dung kiểm tra tập trung vào những lĩnh vực, địa bàn nổi cộm, bức xúc, dễ phát sinh sai phạm, như: quản lý kinh tế, tài chính, quản lý đất đai, khoáng sản; trong chấp hành nguyên tắc tổ chức kỷ luật, giữ gìn phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên,… Qua kiểm tra, kết luận số tổ chức đảng có vi phạm 10.478, chiếm 65,8% so với tổng số tổ chức đảng được kiểm tra; phải thi hành kỷ luật 791 tổ chức, chiếm 7,55% so với số tổ chức đảng có vi phạm. Số đảng viên có vi phạm là 42.757, chiếm 77,3% so với số được kiểm tra; trong đó, phải thi hành kỷ luật 20.344 trường hợp, chiếm 47,58% so với số có vi phạm, đã thi hành kỷ luật 18.331 trường hợp. Qua kiểm tra, một số địa phương đã phát hiện sai phạm và đề nghị cơ quan chức năng thu hồi hàng nghìn m2 đất và nộp ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng.

Qua kiểm tra đã kịp thời phát huy ưu điểm, biểu dương những cán bộ, đảng viên chấp hành tốt; uốn nắn, chấn chỉnh những trường hợp có thiếu sót, khuyết điểm, xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp vi phạm; đồng thời sửa đổi, bổ sung những nội dung không sát, không phù hợp trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương.

3
. Nhìn một cách tổng thể, công tác kiểm tra đạt được những kết quả trên là do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. 

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp nhận thức đúng, đầy đủ, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thường xuyên, có chất lượng, hiệu quả, bảo đảm cho Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương được thực hiện nghiêm chỉnh và thực sự đi vào cuộc sống; ban hành tương đối đầy đủ các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng. Các tổ chức đảng quản lý cán bộ, đảng viên, tổ chức và cá nhân liên quan có nhận thức đúng, nêu cao vai trò, trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện cho việc kiểm tra đạt kết quả.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các cấp chú trọng xây dựng chương trình, kế hoạch, lựa chọn nội dung, đối tượng kiểm tra phù hợp và tiến hành có nền nếp, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục. Việc kiểm tra của Bộ Chính trị, Ban Bí thư có tác dụng lan toả, thúc đẩy các cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới, người đứng đầu tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương gắn với nghị quyết của cấp uỷ cấp trên và của cấp mình; đồng thời quan tâm chỉ đạo cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp uỷ cấp trên và của cấp mình nghiêm túc, có kết quả.

Uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra các cấp chủ động thực hiện và phối hợp với các tổ chức đảng có liên quan thực hiện nhiệm vụ giám sát, phát hiện dấu hiệu vi phạm của cán bộ, đảng viên để kiểm tra, chủ động giải quyết tố cáo về các nội dung này, xem xét, kết luận và xử lý kịp thời, nghiêm minh những trường hợp có khuyết điểm, vi phạm. Chủ động đôn đốc, theo dõi, kiểm tra cán bộ, đảng viên được kiểm tra chấp hành kết luận kiểm tra, khắc phục hậu quả gây ra.

Nhìn chung, kết quả kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, từ nhận thức đến hành động, đã được nhiều các cấp uỷ thực hiện nghiêm túc, khẳng định rõ hiệu quả của công tác kiểm tra của cấp uỷ, tạo cơ sở cho việc đánh giá trung thực, khách quan phong trào cách mạng của quần chúng ở các địa phương; đồng thời, qua kiểm tra, các cấp uỷ cũng thu được những ý kiến đóng góp đúng đắn, sát thực với Trung ương trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách.

Tuy nhiên, việc kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương còn một số hạn chế cần sớm được khắc phục.

Còn một bộ phận cấp uỷ, tổ chức đảng nhất là từ cấp huyện và tương đương trở xuống và cán bộ, đảng viên chưa nắm vững nội dung các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, kể cả những nghị quyết liên quan trực tiếp đến thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì vậy, quá trình thực hiện không nghiêm, không đầy đủ, chậm triển khai thực hiện hoặc thực hiện mang tính hình thức hoặc thiếu năng động, sáng tạo.

Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở các cấp chưa thực hiện nghiêm chỉnh nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, dẫn đến có nhiều khuyết điểm, sai phạm. Khi cán bộ, đảng viên thuộc phạm vi lãnh đạo, quản lý có thiếu sót, khuyết điểm trong thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, còn bao che, không kịp thời nhắc nhở, chấn chỉnh, uốn nắn hoặc chỉ đạo kiểm điểm, khắc phục, dẫn đến vi phạm từ ít nghiêm trọng đến nghiêm trọng, vi phạm của một người trở thành vi phạm của nhiều người, của tổ chức.

Một số cấp uỷ và tổ chức đảng, trong đó có người đứng đầu, cán bộ chủ chốt không những không chấp hành nghiêm nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, mà còn ban hành nghị quyết, quy định, quyết định, kết luận trái với nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương để vụ lợi cho cá nhân hoặc một nhóm người, gây thiệt hại cho Đảng, Nhà nước, xã hội và nhân dân.

Việc xem xét, kết luận, xử lý một số cán bộ, đảng viên có khuyết điểm, vi phạm còn chậm, có trường hợp để kéo dài, không triệt để hoặc xử lý không đúng mức, gây bức xúc trong đảng viên và quần chúng. Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa coi trọng việc đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết luận sau kiểm tra, nên hiệu lực, hiệu quả kiểm tra còn hạn chế; nhiều hạn chế, khuyết điểm, thậm chí vi phạm không được khắc phục, sửa chữa kịp thời.

Một số cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương còn chung chung, dàn trải, chưa rõ nội dung cụ thể, nên quá trình thực hiện chưa sâu, còn làm qua loa, chưa chỉ rõ trách nhiệm, khuyết điểm của cá nhân cán bộ, đảng viên, chủ yếu nêu trách nhiệm, khuyết điểm tập thể. Cấp uỷ cấp trên ở một số nơi lựa chọn nội dung kiểm tra nhiều, thời gian kiểm tra dài, đối tượng, phạm vi kiểm tra rộng gây khó khăn cho việc kiểm tra, nhất là việc tự kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và việc báo cáo kết quả kiểm tra cho tổ chức đảng cấp trên. Chất lượng tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên được kiểm tra còn hạn chế.

Có tình trạng trên là do:

Thứ nhất, còn nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, nội dung của việc kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, còn biểu hiện coi nhẹ, chiếu lệ, hình thức, đối phó, chạy theo thành tích… 

Thứ hai, không ít nơi, công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương không tiến hành chủ động, thường xuyên. Biểu hiện: lúng túng, bị động, đơn giản, hình thức, chậm trễ…

Thứ ba, nhiều nơi, việc kiểm tra chưa tuân theo một quy trình chặt chẽ, có kế hoạch cụ thể với những bước đi cụ thể, sát với thực tiễn. Biểu hiện: hình thức, chiếu lệ, thiếu khách quan, sơ sài… hoặc cấp uỷ đề ra chương trình, kế hoạch kiểm tra nhưng không phân công cấp uỷ viên, uỷ viên ban thường vụ cấp uỷ trực tiếp kiểm tra, kết luận việc kiểm tra mà vẫn giao khoán cho uỷ ban kiểm tra hoặc các ban của cấp uỷ thực hiện việc kiểm tra.

4
. Để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trong thời gian tới, cần chú ý:

Một là
, nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ, tổ chức đảng và chi bộ, nhất là người đứng đầu về vị trí, vai trò, mục đích, ý nghĩa, sự cần thiết của việc kiểm tra đảng viên trong việc thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương để có nhận thức đúng và coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện việc kiểm tra theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp uỷ, tổ chức đảng, chi bộ.

Chủ động nắm chắc yêu cầu, nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của đảng bộ và tình hình thực tế cán bộ, đảng viên chấp hành nghị quyết của Trung ương để xây dựng chương trình, kế hoạch, lựa chọn đối tượng, nội dung kiểm tra đúng và trúng, có trọng tâm, trọng điểm, huy động lực lượng và bảo đảm các điều kiện cần thiết để kiểm tra có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả.

Hai là
, các ban của cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra, một mặt chủ động tham mưu, giúp cấp uỷ xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra cán bộ, đảng viên thực hiện Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương sát hợp, tham gia các cuộc kiểm tra của cấp uỷ, giúp cấp uỷ xem xét, kết luận các cuộc kiểm tra và đôn đốc, theo dõi đối tượng kiểm tra chấp hành nghiêm kết luận kiểm tra. Mặt khác, căn cứ chương trình, kế hoạch kiểm tra của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp trên để xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới có trọng tâm, trọng điểm, sát hợp.

Ba là
, uỷ ban kiểm tra tăng cường công tác nắm tình hình, giám sát cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương để nhắc nhở, uốn nắn, cảnh báo. Đồng thời, kịp thời phát hiện những trường hợp có khuyết điểm, dấu hiệu vi phạm để tiến hành kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý.

Bốn là
, chi bộ chủ động có kế hoạch kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên kể cả cán bộ do cấp trên quản lý sinh hoạt tại chi bộ để kịp thời nhắc nhở, chấp hành tốt ngay tại cơ sở, từ trong chi bộ, chủ động phòng ngừa, không để xảy ra khuyết điểm, vi phạm từ khi còn manh nha; kịp thời phát hiện các trường hợp có dấu hiệu vi phạm để kiểm tra, xem xét, xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo lên cấp có thẩm quyền, kiểm tra, xem xét, kết luận, xử lý nghiêm minh.

Năm là
, qua kiểm tra cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên kịp thời phát hiện những chủ trương, chính sách không còn phù hợp để sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung hay ban hành mới cho phù hợp, bảo đảm Nghị quyết của Trung ương thực sự đi vào cuộc sống. 

Sáu là,
thường xuyên sơ kết, tổng kết để rút ra kinh nghiệm, đề ra chủ trương, biện pháp kiểm tra, giám sát đảng viên có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả. Chú trọng chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt việc tuyên truyền, phổ biến kết quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, trong đó có nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương trên các phương tiện thông tin đại chúng để biểu dương nơi thực hiện tốt, nhắc nhở nơi thực hiện không tốt.

Cao Văn Thống và  Trần Duy Hưng
Ủy ban Kiểm tra Trung ương


Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất