C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng: "Trong cuộc đấu tranh của mình chống quyền lực liên hiệp của giai cấp có của, giai cấp công nhân chỉ khi được tổ chức thành một chính đảng độc lập đối lập với tất cả các chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập nên, thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp. Việc tổ chức như vậy giai cấp công nhân thành một chính đảng là cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục đích cuối cùng của nó là thủ tiêu các giai cấp" (1). Vì thế, đảng cộng sản luôn mang bản chất giai cấp công nhân: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản khác trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào” (2).
Không chỉ như vậy, hai ông còn chỉ rõ đảng cộng sản - đảng của giai cấp công nhân, song đảng không phải là toàn bộ giai cấp công nhân. Đảng là một bộ phận của giai cấp, lãnh tụ chính trị, đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân, bao gồm những người ưu tú nhất, giác ngộ cách mạng nhất, kiên quyết, tiên tiến nhất trong giai cấp công nhân: "Những người cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, đối lập với các đảng công nhân khác. Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của toàn thể giai cấp vô sản. Họ không đặt ra những nguyên tắc riêng biệt nhằm khuôn phong trào công nhân theo những nguyên tắc ấy" (3).
Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, khi giai cấp công nhân và phong trào công nhân phát triển đến trình độ tự giác thì xuất hiện lãnh tụ chính trị để lãnh đạo, dẫn dắt phong trào. Cũng do yêu cầu của một tổ chức giữ vai trò lãnh đạo mà Đảng phải thực sự tiên phong cả về lý luận và thực tiễn: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” (4)
Như vậy, tiên phong về lý luận và tiên phong trong hoạt động thực tiễn là những tính chất cơ bản của đảng cộng sản, là điểm khác biệt căn bản và là sự nổi trội của những đảng viên cộng sản so với bộ phận đông đảo còn lại của giai cấp công nhân.
Tiên phong về lý luận được hiểu là sự nhận thức đúng đắn những vấn đề lý luận của CNXH khoa học – vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân trong đấu tranh xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Lý luận của CNXH khoa học là sự tổng kết những tinh hoa của nhân loại về con đường cách mạng dân chủ, sự hoàn thiện của hệ thống chính trị vì con người, phục vụ con người, đem lại lợi ích cho đa số nhân dân. Tính tiên phong của đảng bảo đảm cho đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, tập hợp rộng rãi giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh để thực hiện mục tiêu trong tất cả các giai đoạn của cuộc cách mạng lâu dài, đầy khó khăn, phức tạp.
Tiên phong trong hoạt động thực tiễn là sự gương mẫu, đi đầu của đảng viên trong mọi nhiệm vụ của cách mạng. Chỉ có sự gương mẫu, hy sinh, thậm chí hy sinh cả tính mạng của mình thì đội ngũ đảng viên mới thuyết phục được đông đảo giai cấp công nhân đi theo cách mạng, thực hiện mục tiêu của cách mạng. Để thể hiện tính tiên phong trong thực tiễn, họ phải thừa nhận và trung thành với mục tiêu chính trị của đảng, tự nguyện tham gia vào tổ chức đảng, tự nguyện thực hiện các nguyên tắc của tổ chức đảng, đặt lợi ích của cách mạng lên trên lợi ích cá nhân, gương mẫu, đi đầu trong công tác.
Do tính chất phức tạp, khó khăn của cách mạng, thực tế sẽ có một bộ phận đảng viên "không thể đi xa hơn" vì sợ gian khổ, không dám hy sinh, thậm chí thỏa hiệp, phản bội lại mục tiêu lý tưởng của Đảng. Vì thế, thường xuyên sàng lọc, đấu tranh, đưa những người không còn đủ tư cách ra khỏi tổ chức đảng là công việc cần thiết, thường xuyên để cho đảng luôn là tổ chức tiên phong.
Trong tác phẩm Nội chiến ở Pháp, một lần nữa các ông chỉ rõ tính tiên phong trong thực tiễn của người cộng sản: “Dù cuộc đấu tranh giai cấp biểu hiện ra ở đâu và trong điều kiện nào, dù cuộc đấu tranh đó mang hình thức nào, đương nhiên là các hội viên của Hội liên hiệp chúng ta cũng đều đứng ở hàng đầu”.(5) Đó là những yêu cầu cần thiết đảm bảo tính tiên phong của mỗi đảng viên trong suốt cuộc đời cách mạng của mình.
Những triết lý về đảng cộng sản, nhất là về đảng viên nêu trên đã được chính Người gương mẫu thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Toàn bộ sự nghiệp của C.Mác đã minh chứng sự trọn đời cống hiến, hy sinh cho cách mạng, cho nhân loại dù gặp biết bao khó khăn, gian khổ, trước sự tấn công quyết liệt, đến cùng nhằm tiêu diệt CNXH của các thế lực thù địch ngay từ khi mới chỉ là những vấn đề lý luận.
Sự đồng hành và tiếp bước của Ph.Ăng-ghen cũng như sự kế tục sự nghiệp cách mạng đầy nghị lực của V.I.Lê-nin với hệ thống lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân đã góp phần quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, đánh dấu sự ra đời của nhà nước XHCN đầu tiên và sau này là hệ thống XHCN trên thế giới, làm thay đổi bộ mặt của hành tinh, giải phóng nhiều dân tộc khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc.
Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn trung thành với những tư tưởng vĩ đại của C.Mác, trong đó có lý luận về tính tiên phong của đội ngũ đảng viên. Vào cuối những năm 20 của thế kỷ thứ XX, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhiều lớp học được mở ở Quảng Tây, Trung Quốc đã trang bị những vấn đề lý luận căn bản của cách mạng XHCN cho những nguời yêu nước, được Nguyễn Ái Quốc viết giáo trình (Đường cách mệnh) và trực tiếp truyền đạt. Sau này, khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Đảng ta luôn quán triệt những luận điểm của C.Mác về đảng và công tác xây dựng đảng, đặc biệt là tính tiên phong của đảng viên trong việc kết nạp, giáo dục, rèn luyện và sàng lọc đội ngũ đảng viên. Các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị (học tập Sửa đổi lối làm việc năm 1947), nhất là sự ra đời, phát triển của trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) 70 năm qua và sự phát triển của hệ thống các trường chính trị cả nước đã đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho mọi đối tượng cán bộ, đảng viên. Đồng thời, các cấp ủy đảng thường xuyên quan tâm đến công tác đảng viên, giao nhiệm vụ cho đảng viên, thử thách trong các phong trào cách mạng của nhân dân để phát hiện, lựa chọn, giới thiệu đảng viên ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị, tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý kỷ luật đối với đảng viên vi phạm.
Những thành tựu vĩ đại từ khi có Đảng lãnh đạo và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước hơn 30 năm đổi mới đã khẳng định những đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, khẳng định tính tiên phong của đa số đảng viên của Đảng ta.
Tuy nhiên, trong điều kiện Đảng cầm quyền, những quyết định của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đường lối đối nội, đối ngoại đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước và sự tồn vong của dân tộc. Đảng viên tham gia vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, ban hành các quyết sách chính trị nếu không thực sự tiên phong về lý luận chính trị, không đổi mới tư duy, không có tầm nhìn chiến lược, đặc biệt là vướng phải “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm” thì có thể có những quyết sách sai lầm.
Cũng trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều đảng viên của Đảng được bổ nhiệm, giới thiệu bổ nhiệm, nhất là ứng cử để được bầu vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội. Khi đó, đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ trong bộ máy nhà nước phải trực tiếp xử lý các công việc có liên quan đến nhân dân. Đây chính là đặc điểm cơ bản nhất, ảnh hưởng, chi phối mạnh mẽ và trực tiếp nhất đến mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân. Vì chủ nghĩa cá nhân mà làm cho một số đảng viên không giữ được tính tiên phong, gương mẫu, dẫn đến suy thoái về đạo đức, lối sống. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng nhận định: Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương...
Hậu quả, hệ lụy của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng chỉ rõ: Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao. Trong khi đó, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến" , "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân.
Nguyên nhân khác không kém phần quan trọng là tính khoa học, tính cách mạng của lý luận, sự giải đáp những vấn đề phát sinh về quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng trong điều kiện hội nhập quốc tế, trong thời đại bùng nổ thông tin và những vấn đề lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc.
Những luận điểm của C.Mác về tính tiên phong của đội ngũ đảng viên, mỗi đảng cầm quyền cho thấy không thể thỏa mãn với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế - xã hội mà phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, kiên quyết đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng hiện nay. Đảng chưa cầm quyền hay đảng cầm quyền đều không thể lạc hậu về mặt lý luận. Phải tập trung nghiên cứu về hình hình trong nước, thế giới, khu vực và vấn đề thời đại một cách sâu sắc, toàn diện. Cùng với nghiên cứu, khai thác những giá trị cốt lõi của Học thuyết Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, cần nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới nhằm cung cấp luận cứ khoa học làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, quan điểm của Đảng, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, đáp ứng đòi hỏi của đảng viên và nhân dân trong thời kỳ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Phát triển học thuyết Mác - Lênin trong điều kiện mới sẽ là cách tốt nhất để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, để Đảng luôn tiên phong trên lĩnh vực lý luận.
Trong điều kiện đảng cầm quyền, nguy cơ suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên là rất lớn và rất nghiêm trọng nên việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn trở thành nhiệm vụ thường xuyên và trở thành quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong điều kiện đảng cầm quyền là cách tốt nhất để củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Những kết quả rõ rệt của công tác xây dựng đảng, nhất là việc siết lại kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, sự nêu gương của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua đã góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, làm cho danh hiệu đảng viên ngày càng thêm cao quý.
---------------------------
(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, NXB CTQG, H.1993, tập 4, tr.484. (2), (3), (4) C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, NXB CTQG, H.1995, tập 4, tr.614, tr.614-615. (5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, NXB CTQG - ST, H.1994, tập 17, tr.481.
PGS, TS. Nguyễn Minh Tuấn
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh