Nghị lực cô Bốn Cơ Tu
Phan Thị Xuân Bốn với một mế người dân tộc Cơ Tu
Giáo viên “cắm bản” xuất thân từ Cô nhi viện

Sinh trưởng trong một gia đình bần nông tại mảnh đất Quế Lộc (Quế Sơn, Quảng Nam) nghèo khó, rồi sớm mồ côi cha, cô Bốn sống với 4 đứa em cùng mẹ già ở quê nhà. Khi Bốn 4 tuổi, trong cảnh cơ hàn nhưng lại không muốn con mình thất học, mẹ đưa hai chị em Bốn vào Cô nhi viện ở Huế. Hơn 10 năm vừa học vừa đan áo, trồng rau, giữ trẻ, chằm nón, dệt chiếu,... cô bé Bốn luôn đau đáu niềm mong ước sau này sẽ là một người có ích.

Học xong cấp 3, cũng đúng thời điểm đất nước được thống nhất (1975), theo tiếng gọi của Tổ quốc, cô gái trẻ Phan Thị Xuân Bốn tình nguyện đăng ký lên vùng núi phía tây Quảng Nam - nơi tập trung đông dân tộc Cơ Tu để làm công nhân cầu đường. Lúc ấy, Bốn chưa tròn 17 tuổi. Rồi thời gian, sự miệt mài, chịu thương, chịu khó và lòng nhiệt thành của Bốn đã nhanh chóng lấy được cảm tình của người dân bản. Người dân quý mến, xem Bốn như người một nhà, họ gọi cô là cô Bốn Cơ Tu. Sau khi hoàn thành 3 năm nghĩa vụ, tình cảm của đồng bào đã làm cho Bốn quyến luyến, không muốn xa rời, Bốn đã quyết định ở lại dạy cái chữ cho đồng bào Cơ Tu.

Khi mới bắt đầu đứng lớp, Bốn gặp rất nhiều khó khăn, thử thách. Văn hoá, ngôn ngữ và con người Cơ Tu hoá ra vẫn còn khá lạ lẫm đối với cô. Sau một thời gian cùng ăn, cùng ở với đồng bào, càng đứng lớp, càng hiểu thêm văn hoá Cơ Tu, công việc càng tốt lê và Bốn như đã bị con người và văn hoá Cơ Tu mê hoặc. Đứng lớp được mươi năm, Bốn đi thi đại học và trúng tuyển. Những ngày học tại Đại học Sư phạm Huế, Bốn phải làm rất nhiều công việc để có đủ tiền trang trải việc học. Từ lao động chân tay (bưng, bê, dọn dẹp, rửa chén bát,…) đến lao động trí óc (viết lách, nghiên cứu, …), cô sinh viên Bốn đều làm hết và thậm chí làm rất giỏi. Chưa hết, vì không có tiền học thêm ngoại ngữ ở các trung tâm Anh ngữ, ngoài giờ học trên lớp, Bốn tự mày mò tiếng Anh ở nhà. Khó khăn, vất vả là thế nhưng Bốn chưa bao giờ tự ti hay mặc cảm về điều này, trái lại, cô lại rất lạc quan và yêu đời, được thầy yêu, bạn quý. Nhiều thầy giáo từng dạy Bốn ở trường Đại học Sư phạm Huế khen ngợi về ý chí vượt khó của cô, coi Phan Thị Xuân Bốn là tấm gương về tinh thần lạc quan và nghị lực.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Bốn tiếp tục học cao học. Thời gian học cao học ở Hà Nội, vì điều kiện kinh tế, Bốn thuê trọ trong một phố nghèo với giá thuê thời ấy là rất "bèo". Hằng ngày, với chiếc xe đạp cũ kĩ, cô đạp hàng chục cây số đến Viện Văn hóa Dân gian để học, chiều lại gò lưng đạp xe qua khu Thanh Xuân Bắc để học thêm tiếng Anh. Xong việc học, trên đường về, cô tạt qua chợ cóc ven đường mua bó rau, nhúm tép để nấu ăn. Cứ như thế, ngày qua ngày, mỗi buổi chiều, xóm trọ bình dân Kim Ngưu, Lò Đúc (Hà Nội) lại thấy Bốn trên chiếc xe cọc cạch đi về với bao vất vả nhưng trên môi vẫn luôn nở nụ cười.

Từ rừng đi làm Tiến sĩ

Hoàn thành chương trình đào tạo cao học, bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ Văn hoá học loại xuất sắc, Bốn về công tác tại trường Đại học Quảng Nam. Liền sau đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định công nhận Nghiên cứu sinh chuyên ngành Dân tộc học cho cô. Niềm vui và âu lo chen lẫn vì cô giáo Bốn không được hỗ trợ kinh phí học tập (quá tuổi quy định) mà hoàn cảnh kinh tế lại quá nghèo. Để có kinh phí hoàn thành luận án, trong thời gian làm nghiên cứu sinh ở Hà Nội, ban ngày cô Bốn thường đạp xe đến các cơ quan để tìm kiếm sự hỗ trợ, tối về, cô cặm cụi viết bài gửi báo, tạp chí… Những khoản tiền nhỏ thu được từ nguồn này phần nào phụ cấp thêm cho cô chi phí trong những ngày ở Hà Nội học tập. Và cô vẫn sống vui, sống khoẻ như những ngày ở rừng núi với bà con Cơ Tu, lúc nào tâm hồn cô cũng luôn hướng về rừng.

Hơn 35 năm phấn đấu và vươn lên trong cuộc sống cũng là chừng đó thời gian cô Phan Thị Xuân Bốn nỗ lực vươn lên. Hiện giờ, cô Bốn sắp nhận bằng Tiến sĩ Dân tộc học.

Thời gian gần đây, cô Bốn còn dành nhiều công sức cho việc viết sách và dịch thuật. Rồi những cuốn sách đầu tiên về dạy tiếng Cơ Tu do cô biên soạn đã ra đời và được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa vào chương trình giảng dạy tiếng dân tộc cho đồng bào. Không những thế, ngày ngày, hằng đêm, cô Bốn vẫn đi sớm về khuya dạy tiếng Cơ Tu cho mấy trăm cán bộ miền núi Quảng Nam... Đóng góp của cô được ghi nhận, đánh giá cao. Thời gian qua, cô Bốn được mời tham dự nhiều hội thảo khoa học quốc tế về văn hoá (Thái Lan - 2008, Hoa Kỳ - 2009, Đài Loan - 10-2010 và trong thời gian tới là các hội thảo sẽ tổ chức ở Trung Quốc, Căm-pu-chia, Lào).

Đến hôm  nay cô giáo-tiến sĩ tương lai Phan Thị Xuân Bốn vẫn mộc mạc và chân thành như những ngày đầu ở bản, ở rừng. Tạm biệt cô tôi cứ nghĩ: “Từ một giáo viên cắm bản đến một Tiến sĩ là cả một hành trình đầy vất vả, chông gai mà không dễ ai cũng có thể thực hiện được…”. Sự nỗ lực của cô đã và đang góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc Cơ Tu và đó cũng là tình yêu của cô Bốn dành cho đồng bào Cơ Tu.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất