Để hiện thức hóa con đường phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Trần Đình Huỳnh Nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng

PGS. Trần Đình Huỳnh, nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng.

PGS. Trần Đình Huỳnh, nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng.

Lời tòa soạn: Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội… Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Tạp chí Xây dựng Đảng xin trân trọng giới thiệu loạt bài 5 kỳ “Để hiện thực hóa con đường phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” của PGS. Trần Đình Huỳnh, nghiên cứu viên cấp cao, nguyên Viện trưởng Viện Xây dựng Đảng.

Kỳ 1: Phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc từ nhận thức đến hành động

Sinh  ra  với  danh  hiệu  cao  quý  CON NGƯỜI, tất nhiên phải sống và tồn tại. Nhưng  tồn  tại  chỉ  là  hiện  hữu. CON NGƯỜI khác loài vật là có linh hồn, suy nghĩ, mục đích, lý tưởng, khát khao và mơ ước, hy vọng và mong chờ - gọi chung là khát vọng. Khát vọng chân chính luôn mang nặng một sứ mệnh thiêng liêng là ý thức trách nhiệm, bắt buộc con người phải nỗ  lực, gắng gỏi, gánh vác  để  biến  ước mơ  thành  hiện  thực. Khát vọng muôn đời của con người  là được sống trong hòa bình, hạnh phúc, tự do. Nhưng con đường đi  tới đó muôn dặm, gập ghềnh gian khổ. Đặc điểm nổi bật của khát vọng Việt Nam là đi từ nhận thức đến hành động, từ hiểu biết để tin tưởng và đã tin thì quyết làm đúng như C.Mác đã từng khẳng định: Cách mạng phải có đầu óc và nhiệt tình.

Tiếp bước cha anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có khát vọng cao cả là giành lại độc lập,  tự  do  cho  nước Việt Nam  từ  tay  ngoại bang, khi ấy là bọn thực dân Pháp và phong kiến  tay sai. Bác Hồ bắt đầu  thực hiện khát vọng ấy bằng việc tìm để hiểu thấu, dấn thân và  tự xác định  trách nhiệm. Sau này, Người nhớ lại: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn  tìm xem những gì ẩn đằng  sau những từ ấy”(1).

Song hành trên con đường tìm hiểu và nhận biết  của  Bác  là  hành  động.  Năm  16  tuổi (1906), phản kháng chế độ bóc  lột của  thực dân Pháp nên Bác đã tham gia biểu tình chống thuế trong phong trào nông dân ở Thừa Thiên. Năm 21  tuổi (1911), chỉ với sức  trẻ, chí khí quật cường và  lòng dũng cảm, Bác quyết ra nước ngoài và đến nước Pháp, nơi ra đời của Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền với mục tiêu: Tự DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI để “… xem họ làm như thế nào, trở về giúp đồng bào ta”(2). Khi đến nước Pháp, chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bất công trong xã hội, một câu hỏi lớn lại được đặt ra trong đầu óc chàng  thanh niên ham hiểu biết ấy: Tại  sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi đến“ khai hóa” chúng ta?

Bác Hồ tìm đến xứ sở cờ hoa, nơi có tượng Nữ thần Tự do mà người Pháp đã trao tặng cho đất nước Hoa Kỳ, nơi ra đời Bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ. Nhưng thực tiễn của xã hội Mỹ đã dẫn Người đến chân tượng Nữ thần Tự do để rồi viết ra những câu hỏi mà cho đến hôm nay nước Mỹ vẫn chưa có lời giải đáp: “Ánh sáng trên đầu thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh,  còn  dưới  chân  tượng  thần Tự  do  thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da  trắng?

Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao  giờ  phụ  nữ  được  bình  đẳng  với  nam giới?”. Bác tìm đến nước Anh, nhận quét tuyết để lấy tiền sống và học tiếng Anh, ngôn ngữ thông dụng trên thế giới, để có thêm một ngoại ngữ dùng làm chìa khóa mở kho tàng kiến thức của nhân  loại. Ở đây, khi  làm bồi bàn  trong những khách sạn  lớn, Bác có điều kiện  làm quen với các nhà bác học và các văn nghệ sĩ danh tiếng.

Cuối năm 1917 (27 tuổi ) Bác trở lại Pa-ri -thủ đô nước Pháp, trung tâm thông tin của thế giới. Ở đây, Bác có nhiều cuộc tiếp xúc với các nhà văn hóa, trí thức và bắt đầu tham gia các buổi sinh hoạt chính trị. Với hành trang kiến thức đã thu lượm được, năm 1919, với cái tên Nguyễn Ái Quốc, Bác  quyết  định  gia  nhập Đảng Xã hội Pháp với nhận thức rằng: Đây là tổ chức duy nhất bênh vực nước tôi, tổ chức theo đuổi lý tưởng cao quý Tự do - Bình đẳng - Bác ái.  Hành  động  mang  tính  đột  phá  trên  con đường giành độc  lập,  tự do  cho Tổ quốc  là tham gia Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, là một tác giả chính của Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Không thể bằng lòng với những lời hứa suông của Đảng Xã hội Pháp, nói nhưng không hành động ủng hộ lợi ích của nhân dân thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc tìm đến với chủ nghĩa  Lê-nin  và  Quốc  tế  III.  Năm  30  tuổi (1920) Nguyễn Ái Quốc trở thành thành viên tham gia  sáng  lập Đảng Cộng  sản và  chính thức gia nhập hàng ngũ đội tiên phong quốc tế đấu tranh cho độc lập, tự do của các dân tộc bị áp bức. Năm 31 tuổi (1921) Bác đã công bố hai bài báo  có  tên  là Đông Dương viết bằng  tiếng Pháp đăng trên Tạp chí Cộng sản (La revue Communiste) với những lời tuyên bố về niềm tin  vào  sức  sống  của  người Đông Dương: “Người  Đông  Dương mặc  dù  bị  thực  dân Pháp ra sức đầu độc cả về  tinh  thần  lẫn  thể xác.  Nhưng  không,  người  Đông  Dương không thể chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ  thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người Đông Dương... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến”. Tiếp  theo,  Người  chỉ  ra  trách  nhiệm  của những người  cộng  sản:  “Bộ phận ưu  tú  có nhiệm vụ phải thúc đẩy thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi. Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc  là  gieo  hạt  giống  của  công  cuộc  giải phóng nữa thôi”(3). Tìm được học thuyết cách mạng chỉ đường, Người vui mừng, ngồi trong phòng một mình mà như muốn hô to, kêu gọi đồng bào mình: Đây chính là cái cần thiết cho chúng  ta,  là vũ khí giúp  chúng  ta  trên  con đường đấu tranh giành độc lập, tự do. Người học  hỏi,  nghiền  ngẫm,  vận  dụng  vào  thực tiễn, Người phân tích điều kiện địa lý, lịch sử của châu Á và Đông Dương để khẳng định: “Chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở châu Á nói  chung và Đông Dương nói  riêng”(4).

Đồng  thời,  Người  nêu  trách  nhiệm  tuyên truyền  Chủ  nghĩa  Mác-Lênin  của  những người cộng sản để họ biết đem sức dân ta mà giải phóng cho ta.  Năm 32  tuổi (1922), Người  tích cực hoạt động để xúc tiến việc thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, tham gia vào BCH và làm Ủy viên thường  trực  của  Hội  Liên  hiệp  thuộc  địa. Người đã sáng lập tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) có tiêu đề là Diễn đàn của các dân tộc thuộc địa và mục đích là đấu tranh “vì lợi ích của công lý, sự thật và tiến bộ. “Báo Le Paria là vũ khí để chiến đấu. Sứ mạng của nó đã rõ ràng: Giải phóng con người”(5). Báo kêu gọi nhân dân các dân  tộc  thuộc địa đoàn kết  lại để đấu tranh cho sự tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ, hô hào họ tổ chức lại nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi những lực lượng thống trị, thực hiện tình yêu thương và hữu ái. Ngày 24-5-1922, Hội đồng nghiên cứu vấn đề  thuộc địa của Hội Liên hiệp thuộc địa thông qua Tuyên ngôn do Nguyễn Ái Quốc  thảo. Tuyên ngôn có đoạn viết: “Anh em phải làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng công  thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ  lực của bản  thân anh em”. Cuối cùng, Tuyên ngôn kêu gọi: “Hỡi các bạn bị áp bức ở chính quốc! Giai cấp  tư sản  trong nước các bạn đã lừa dối các bạn, dùng các bạn làm công cụ đi xâm lược đất nước chúng tôi. Ngày nay, vẫn dùng cái chính sách qủy quyệt ấy, giai cấp tư sản nước các bạn lại định dùng chúng  tôi  để  đàn  áp  mọi  cố  gắng  tự  giải phóng của các bạn”. “Đứng trước chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, quyền lợi chúng ta là thống nhất, các bạn hãy nhớ lời kêu gọi của Các Mác: Vô sản  tất cả các nước, đoàn kết lại”(6).

Vượt qua bao hiểm nguy, gian khó, năm 1930, 40 tuổi, với tư cách Ủy viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc hợp nhất các tổ chức cộng sản ở trong nước, sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó đến nay nước ta đã có  một  Đảng  chân  chính  cách  mạng,  tiên phong  dẫn  lối  chỉ  đường. Năm  1945,  khát vọng cháy bỏng qua hàng thế kỷ của cả dân tộc  đã  được Đảng Cộng  sản Việt Nam mà đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với tiêu ngữ là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, một nhà nước dân chủ được  thành  lập  sớm nhất Đông Nam Á.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ  tịch Hồ Chí Minh  luôn khát khao xây dựng một đất nước có thể sánh vai với các cường quốc năm châu. Từ khi còn là một thanh niên yêu nước, Người khát khao tìm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, để rồi 34 năm sau, khát khao ấy trở thành hiện thực: Nước Việt Nam có tên trên bản đồ thế giới. Trên  cương vị Chủ  tịch nước, Hồ Chí Minh đã bày tỏ niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ với khát vọng xây dựng một đất nước phồn vinh, hạnh phúc: Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu. Trong suốt 24 năm là lãnh tụ của dân tộc, Người bền bỉ thực hành đạo đức cách mạng, nêu một tấm gương sáng về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Tâm nguyện cuối cùng của Người  là khát vọng “... xây dựng  thành công một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

Ngót một thế kỷ đã qua dưới ngọn cờ Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua chính mình, vững vàng dẫn dắt dân tộc ta làm nên lịch sử, từng bước thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, dân giàu nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trong Báo cáo chính  trị  tại Đại hội XIII  của Đảng  cụm  từ “khát vọng phát  triển” được đề cập đến với nhiều nội dung phong phú, thiết thực, phản ánh nhận  thức mới,  có  kế  thừa  và  phát  triển  từ truyền thống của dân tộc đến tinh hoa của thời đại. Trong chủ đề Đại hội, khát vọng Việt Nam được  thể  hiện  như một  tuyên  bố  chính  trị: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết dân  tộc, kết hợp với sức mạnh  thời đại; đẩy mạnh đổi mới sáng  tạo, phát  triển nhanh và bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa  thế kỷ XXI, nước  ta  trở  thành nước phát triển theo định hướng XHCN”. Các quan điểm và định hướng phát  triển trong Báo cáo chính trị nhấn mạnh: “Bảo đảm lợi  ích  quốc  gia  -  dân  tộc  trên  cơ  sở  các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước...”; “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển; phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam...”. Đại hội xác định rõ vấn đề quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài: “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và trọng dụng  nhân  tài. Thúc  đẩy  chuyển  giao,  ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào các lĩnh vực của đời sống xã hội...”; “Tăng cường xây dựng con người và nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc... khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển...”.

Đại hội nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, trong nhiệm vụ thứ tư chỉ rõ: “Khơi  dậy  khát  vọng  phát  triển Việt  Nam cường thịnh, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam  trong  sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...”. Đột phá thứ hai nhấn mạnh: “Phát triển nguồn nhân lực... đổi mới  sáng  tạo, khơi dậy khát vọng phát triển, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam”. Đảng ta tin tưởng rằng: Với khát vọng vươn lên mãnh liệt, quyết tâm chính trị cao, nhất định đất nước ta sẽ lập nên những kỳ  tích mới  vì một  nước Việt Nam  cường thịnh, cùng tiến bước sánh vai với cường quốc năm châu. Khát vọng phát triển của Đảng là khát vọng Việt Nam đổi mới, dân tộc Việt Nam cường thịnh, văn minh, nhân dân hạnh phúc, là khát vọng thiêng liêng, lớn lao, hòa hợp ý Đảng - lòng Dân, tạo sự đồng tâm, nhất trí của toàn thể nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó chính là sự kế thừa và phát triển khát vọng của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong hoàn cảnh mới. Quan điểm về khát vọng phát triển được Đại hội XIII của Đảng thể hiện là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh vào đường lối, chủ trương của Đảng để xây dựng đất nước trong bối cảnh mới.

-----

(1), (3), (6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, H.2011, tập 1, tr .461; tr .40; tập 14, tr .192. (2), (4), (5) Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, NXB CTQG, tập 1, tr .45-46, tr .114, tr .137.

Kỳ 2: Con đường phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác-Lênin

1. C.Mác và Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ tính tất yếu của cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công tàn bạo của giai cấp tư sản là làm cuộc cách mạng giải phóng xã hội do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng  sản  lãnh  đạo. Cuộc cách mạng ấy sẽ xóa bỏ  tận gốc sự  thống  trị của CNTB và tất cả tàn dư của các xã hội trước nó để xây dựng CNXH. Hai  ông  là  tác  giả  cuốn  Tuyên  ngôn  của Đảng Cộng  sản - Cương  lĩnh  đầu  tiên  của những người cộng sản trên toàn thế giới. Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: “Trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy, do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa những giai cấp bị trị và những giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội của họ; nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh  giai  cấp…”(1).  Trong  tác  phẩm  này, C.Mác  và  Ph.ăng-ghen  đã  chỉ  rõ:  Trong CNTB, giai cấp tư sản liên tục bóc lột giai cấp vô sản đối với sức lao động của họ, tạo ra lợi nhuận bị giai cấp tư sản chiếm đoạt và tích lũy vốn. Tuy nhiên, làm như vậy giai cấp tư sản cư xử như tự đào mồ chôn chính nó; giai cấp vô sản không thể tránh khỏi việc trở nên có ý thức về năng  lực của họ và  lên nắm chính quyền thông qua cách mạng, lật đổ giai cấp tư sản. Trong Cương lĩnh đầu tiên của những người cộng sản, do hoàn cảnh lịch sử ở châu âu khi ấy nên C.Mác và Ph.ăng-ghen chỉ mới hình dung một cách đại thể là, sau khi lật đổ giai cấp tư sản giành được chính quyền thì giai cấp vô sản sẽ thiết lập nền chuyên chính vô sản, cải tạo và xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN.

Trên thực tế, thời Mác và ăng-ghen chưa có nước tư bản nào giành được chính quyền, chỉ duy nhất Công xã Pa-ri nổ ra và sau hơn 70 ngày thì Công xã đã bị dìm trong bể máu.Từ kinh nghiệm thực tế đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản sau khi C.Mác qua đời, trong lời tựa cho những lần tái bản bằng các  thứ  tiếng khác nhau, Ph.ăng-ghen vẫn nhất quán với phương pháp mà C.Mác và Ph.ăng-ghen nêu ra trong lời tựa đầu tiên. Một mặt,  ông  khẳng  định  tư  tưởng  chủ  đạo  của Tuyên ngôn, mặt khác ông bổ sung, làm rõ hơn những nội dung, cả về chiến lược và sách lược của Tuyên ngôn. Chẳng hạn, khi viết Lời tựa tái bản bằng  tiếng Nga năm 1882, Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ vai trò của “nước Nga đang đi tiên phong trong phong trào cách mạng châu âu”. Đặc biệt, ông đã chỉ ra rằng nước Nga, với chế độ công xã nông thôn, “cái hình thức đã bị phân giải ấy của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản chủ nghĩa về sở hữu ruộng đất” mà không cần “phải trải qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử của phương Tây”.

Từ thực tiễn nước Nga, Ph.ăng-ghen đã chỉ rõ điều kiện một nước nông nghiệp chưa qua chế độ TBCN, có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản (CNCS). ông viết: “Ngày nay lời giải duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: Nếu cách mạng Nga báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây và nếu cả hai cuộc cách mạng ấy bổ sung cho nhau  thì chế độ ruộng đất công cộng ở Nga hiện nay sẽ có thể là khởi điểm của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(2). Chỉ dẫn thiên tài đó của Ph.ăng-ghen đã làm phong phú thêm lý luận về con đường đi lên CNCS của các nước khác nhau trong những điều kiện khác nhau. Điều đó đã được cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga  năm  1917  chứng minh  là hoàn toàn đúng bởi sự vận dụng tài tình và sáng tạo những nguyên lý của Tuyên ngôn và chỉ dẫn bổ  sung  của  Ph.ăng-ghen  do V.I.Lê-nin  và Đảng Cộng sản (b) Nga thực hiện.  C.Mác và Ph.ăng-ghen quan niệm xã hội XHCN là một xã hội tiếp theo và cao hơn xã hội tư bản. Nó phải phá bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu nền sản xuất hàng hóa TBCN, loại trừ sự tôn thờ đồng tiền trong các quan hệ xã hội, sự sùng bái vật chất đi kèm với sự phá hủy các giá trị con người. Động cơ và mục đích của nền sản xuất TBCN là giá trị thặng dư. Đó là nguồn gốc và điều kiện tồn tại của CNTB mà hệ quả tất yếu của nó là duy trì chế độ người bóc lột người. Theo C.Mác và Ph.ăng-ghen thì cần thủ tiêu chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN, chấm dứt quan hệ hàng - tiền, thay thế sự áp bức, bóc lột con người bằng tự do và phát triển toàn diện con người. Bằng cách đó, CNXH sẽ “làm cho những cơn co giật và những đau đớn của xã hội bóc lột phải tiêu tan”. Bằng sự phân tích lô-gic phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác và Ph.ăng-ghen hình dung con đường phát triển của xã hội tương lai được hình thành sau khi giai cấp vô sản mỗi nước giành được chính quyền là thiết lập nền chuyên chính vô sản, xây dựng một xã hội công hữu về tư liệu sản xuất dựa trên cơ sở của lực lượng sản xuất phát triển thật cao không tương dung được với chế độ sở hữu tư nhân, tiêu biểu là sở hữu tư bản nữa, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, thiết lập một xã hội hoàn toàn tự do, bình đẳng, nhân đạo. “Thay cho chế độ tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng của nó, xuất hiện một  liên hiệp,  trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả mọi người”(3).

2. V.I.Lê-nin - nhà cách mạng trung thành và phát triển Chủ nghĩa Mác, ông là nhà canh tân đầu tiên, vĩ đại nhất trong lịch sử phát triển của CNXH khoa học. Sau khi cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nước Nga trong những năm 1917-1921 do sự đòi hỏi khắc nghiệt của nội chiến và chống trả sự bao vây của 14 nước đế quốc nên  đã  áp  dụng  Chính  sách  cộng  sản  thời chiến,  thực  hiện  xây  dựng  nền  kinh  tế  phi hàng hoá, phân phối sản phẩm trực tiếp, tiến hành  quốc  hữu  hóa  công  nghiệp,  thương nghiệp, trưng thu lương thực thừa của nông dân, đình chỉ tự do buôn bán và trao đổi sản phẩm ở địa phương. Ngày 17-7-1921,  trong một báo cáo quan trọng “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các ban giáo dục chính trị”, V.I.Lê-nin đã nhận định: “Sai lầm của chúng ta” là “một phần do những nhiệm vụ quân sự dồn dập đè lên vai chúng ta, và do khi cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa kết thúc, nước cộng hòa chúng ta lúc đó đứng trước một tình hình cơ hồ như tuyệt vọng - do những tình huống ấy và nhiều tình huống khác nên chúng ta đã phạm sai lầm quyết định chuyển ngay sang việc sản xuất và phân  phối  cộng  sản  chủ  nghĩa… Đáng  tiếc rằng, đó lại là một sự thật. Tôi nói đáng tiếc vì một  cuộc  thí nghiệm không  lâu  lắm đã  cho chúng ta thấy rõ rằng cách làm như vậy là sai, là trái với những điều  trước kia chúng  ta đã viết về bước quá độ  từ CNTB  lên CNXH… Thất bại đó đã biểu hiện ở chỗ là chính sách kinh tế của ta lâm vào tình trạng, ở phía thượng tầng của nó, bị tách rời cơ sở và không dẫn đến việc phát triển lực lượng sản xuất mà cương lĩnh Đảng  ta coi  là nhiệm vụ cơ bản và bức thiết nhất.

Chế độ trưng  thu  lương  thực  thừa ở nông thôn,  cách  giải  quyết  những  nhiệm  vụ  xây dựng ở thành thị một cách trực tiếp theo CNCS như thế đã làm trở ngại cho việc phát triển lực lượng sản xuất, và đã tỏ ra là nguyên nhân chủ yếu gây nên cuộc khủng  hoảng  kinh  tế  và chính trị sâu sắc mà chúng ta vấp phải hồi mùa xuân 1921. Cho nên, đứng về mặt đường lối và chính sách của chúng ta mà xét, cần phải có cái mà người ta không thể gọi một cách khác hơn là một sự thất bại nặng nề và một sự rút lui rất nghiêm trọng”(4).

Với tinh thần tự phê phán nghiêm khắc đối với  bệnh  giáo  điều  theo  những  quan  niệm chung của C.Mác và Ph.ăng-ghen khi xa rời tình hình cụ thể ở nước Nga nên đã đi quá sớm, quá xa trong các chủ trương kinh tế. Kịp thời và dũng cảm nhận rõ sai lầm, V.I.Lê-nin đã đề ra Chính  sách kinh  tế mới  (NEP) và Thanh Đảng nhằm đưa nước Nga quá độ lên CNXH một cách hợp quy luật. NEP thực sự là một sự chuyển hướng chiến lược: Từ quá độ trực tiếp sang quá độ gián tiếp, từ đường thẳng chuyển đi đường vòng, phải chia  thời kỳ quá độ ra thành nhiều bước quá độ, trung gian, từ từ. Phải kiên nhẫn, không được nôn nóng trước cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ cho sự toàn thắng của CNXH. Từ lập trường chính trị của giai cấp vô sản, V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: Chuyên chính vô sản là một cuộc chiến tranh quyết liệt. Giai cấp vô sản đã thắng lợi trong một nước, nhưng trong phạm vi quốc tế thì vẫn yếu hơn. Giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình toàn thể công nhân và toàn thể nông dân làm cho họ nhận thức sâu sắc rằng trận chiến đấu chưa kết thúc.

Chính  sách kinh  tế mới  là  trận chiến đấu mới bằng một đường lối chiến lược mới giữa giai cấp vô  sản và giai  cấp  tư  sản để giành thắng lợi cho CNXH. NEP là một cống hiến xuất sắc của V.I.Lê-nin vào lý luận của CNXH khoa  học. Con đường đi lên CNXH  ở một nước không phải là nước tư bản phát triển cao đặt ra những vấn đề mới mà  C.Mác và Ph.ăng-ghen chưa đề cập tới.

Trước hết, phải thừa nhận nền kinh tế hàng hoá còn lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ và trong CNXH. Do đó, phải thừa nhận quy luật giá trị, thừa nhận về mặt pháp lý của các hình thức sở hữu, phân phối, áp dụng cơ chế hạch toán kinh tế trong sản xuất - kinh doanh, sử dụng các đòn bẩy kinh tế (kích thích sản xuất, thưởng phạt, thuế, lương…); giải quyết đúng đắn các quan hệ hàng  -  tiền, cung  - cầu, kế hoạch - thị trường.

Thứ hai, phải thỏa hiệp với tiểu nông. Nhà nước chuyên chính vô sản không được tính toán hơn thiệt đối với họ mà phải giúp đỡ, tạo điều kiện cho họ tiến lên. V.I.Lê-nin đã từng nhấn mạnh: Chúng ta chỉ có thể chiến thắng được CNTB khi biết tổ chức được tầng lớp tiểu nông lại trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất, phải dùng chính quyền vô sản mà giúp đỡ cho sự phát triển. Cuộc đấu tranh sẽ kết thúc như thế nào là do điều đó quyết định. Điều đáng chú ý là V.I.Lê-nin đã khuyên “chớ trông mong chuyển ngay lên chủ nghĩa cộng sản” mà phải lấy sự quan tâm của người lao động làm cơ sở, phải thừa nhận quyền tự do sản xuất - kinh doanh và quyền sở hữu tư nhân của người tiểu nông về công cụ sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Từ đó mà hướng họ vào các hình thức hợp tác tự nguyện, có lợi, trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất.

Thứ ba, cần phải sử dụng “chủ nghĩa tư bản nhà nước”, phải lợi dụng nó để xây dựng cơ sở vật chất kỹ  thuật của CNXH. V.I.Lê-nin đặt vấn đề sử dụng CNTB nhà nước mà  nhiều người cộng sản đương thời coi là điều “kỳ lạ”, là “phi lý”, nhưng xét trên bình diện lý luận chính trị và các quy luật vận động của lịch sử, thì chính nó  lại  là “chiếc cầu nối” để đi lên CNXH. Đây là vấn đề mà C.Mác và Ph.ăng-ghen trước kia chưa hề đặt ra. V.I.Lê-nin nói: Cần phải “tạo ra một thứ chủ nghĩa tư bản phục tùng nhà nước và phục vụ nhà nước”(5). Phải chăng, đó chính là chủ trương tôn trọng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta đang vận dụng? Tư duy chính trị sáng suốt đã dẫn V.I.Lê-nin đi đến những quyết định táo bạo - một sự  táo bạo vượt cao hơn những suy nghĩ bảo thủ trì trệ dựa trên nguyên

tắc: Tôn trọng các quy luật khách quan, đặc biệt là các nguyên tắc kinh tế. Chính vì vậy mà Lê-nin từ chỗ coi NEP là một chính sách kinh tế, thậm chí coi là “một bước lùi”, tới  chỗ khẳng định như một đường lối chính trị, một phương hướng phát triển “nghiêm túc và lâu dài”, hơn thế nữa còn là một thiết kế lý luận về mô hình của CNXH.

Thứ tư, NEP là sự thể hiện bản lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản và chính quyền Xô-viết. Đây thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản quốc tế, bởi vì vấn đề cuối cùng là những người cộng sản sẽ thành công hay thất bại trong công cuộc xây dựng CNXH. “Hãy nhớ rằng câu hỏi mà hiện nay cần phải giải đáp dứt khoát là: Chúng ta có biết cách làm việc cho chính chúng ta được hay không? Nếu không - tôi xin nhắc lại -  nước  cộng  hoà  của  ta  sẽ  bị  diệt  vong”(6).

V.I.Lê-nin đòi hỏi  tất cả cán bộ, đảng viên, viên chức nhà nước đều phải học hỏi để biết làm kinh tế, bởi vì “bên cạnh các đồng chí sẽ có các nhà tư bản, cũng sẽ có các nhà tư bản nước ngoài, những người được tô nhượng và những nhà trưng thầu; họ sẽ quơ của các đồng chí những món  lợi nhuận  lên  tới hàng  trăm phần trăm; họ sẽ làm giàu bên cạnh các đồng chí. Cứ để cho họ làm giàu; còn các đồng chí thì sẽ học được ở bọn họ cách quản lý kinh tế, chỉ có như  thế, các đồng chí mới xây dựng được nước cộng hòa cộng sản chủ nghĩa”(7).  

Việc học hỏi là một trọng trách, nó liên quan đến sự sống còn của chế độ. Vì vậy, V.I.Lê-nin coi mọi sự lơ là học tập đều là tội lỗi: Ai ngại khó khăn, ai nhụt chí khí, ai muốn thoái lui, không chịu lao vào khoa học quản lý - “một khoa học thật khó khăn, gian khổ và đôi khi khắc nghiệt nữa”(8). Ông đã nghiêm khắc cảnh báo: Nếu ai không chịu học để biết quản lý thì đều phải xử phạt một cách nghiêm khắc. Đó là biện pháp duy nhất để tồn tại, bởi vì nếu không biết quản lý thì chúng ta sẽ bị “uy hiếp của nạn diệt vong”. Ông đã chỉ rõ: “Nhà nước phải học cách buôn bán để sao cho công nghiệp thỏa mãn được nông dân, còn nông dân thì nhờ có thương nghiệp mà thỏa mãn được nhu cầu của mình. Phải tổ chức như thế nào để mỗi người lao động đem được hết sức mình ra củng cố nhà nước công - nông. Chỉ có như thế mới có thể  xây  dựng  được  một  nền  đại  công nghiệp”(9).  

V.I.Lê-nin đã phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.ăng-ghen về hình thái kinh tế - xã hội, về sự phát triển và thay thế nhau của các chế độ xã hội, khẳng định con đường phát triển của nhân loại là làm cuộc cách mạng XHCN. Sự thắng lợi của CNXH đối với CNTB, suy cho cùng là CNXH có tạo ra được một năng suất  lao  động  xã  hội  cao  hơn  CNTB  hay không, mà muốn có năng suất lao động xã hội cao hơn CNTB, thì chỉ có một con đường duy nhất là công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước

-----

(1), (2), (3) C.Mác và Ph.Ăng-ghen tuyển tập, NXB  Sự  thật, H.1980,  tập  1,  tr .509-510,  tr .508, tr .569. (4), (5), (6), (7), (8), (9) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Sự thật, H.1978, tập 44, tr .197-199, tr .202, tr .209, tr .209, tr .210, tr .210

 KỲ 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

Từ khi Nguyễn Ái Quốc lựa chọn theo Quốc  tế III,  tin  theo Chủ nghĩa Mác-Lênin,  cách mạng Việt Nam  có  định hướng  rõ  ràng,  từng bước  tiến  lên dưới hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Ngay từ khi Nguyễn Ái Quốc  tìm  ra con đường cứu nước cho tới khi dân tộc ta hoàn thành cuộc cách mạng  dân  tộc  dân  chủ  nhân  dân,  giải phóng, thống nhất đất nước (năm 1975), trong toàn bộ hoạt động của mình, nhân dân Việt Nam đã luôn đi theo định hướng XHCN. Hai ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH dẫn dắt cả dân  tộc Việt Nam  tiến bước  trên con đường thắng lợi.

Nếu CNXH theo quan niệm của C.Mác là sản phẩm tất yếu của lịch sử khi nó chín muồi, khi lực lượng sản xuất, cụ thể là nền kinh tế -xã  hội  đã  công  nghiệp  hóa  ở  trình  độ  cao, không thể tương dung với quan hệ sản xuất tư nhân TBCN, biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt, quần chúng không thể tiếp tục sống dưới ách áp bức bóc lột của chúng, sẵn sàng nổi dậy dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đội tiên phong của nó là đảng cộng sản. Như vậy, xã hội tư bản đã tạo tiền đề cho cuộc cách mạng XHCN nổ ra. V.I.Lê-nin đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở nước Nga.

Cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 đã giành chính quyền về tay giai cấp công nhân. Sau đó V.I.Lê-nin và Đảng Cộng sản (b) Nga đã chủ trương thực hiện chế độ cộng sản thời chiến nhằm đưa đất nước Xô-viết tiến thẳng lên CNXH. Nhưng sau hai năm, V.I.Lê-nin đã thẳng thắn và dũng cảm thừa nhận đó là một sai lầm về đường  lối, phải đề  ra chính sách kinh tế mới (NEP), thực chất là trở lại đúng với quy  luật của sự vận động xã hội, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ  thuật mà CNTB ở Nga  trước đó còn quá non yếu chưa tạo ra.

Thực tiễn cách mạng Nga đã cho Nguyễn Ái  Quốc  những  gợi  ý  quan  trọng  về  con đường đi lên CNXH ở nước ta sau khi đã giành được độc lập. Năm  1925, Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội - tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam – ra đời, do Người sáng lập. Khi đề cập đến Chương trình hoạt động, Điều lệ của Hội đã xác định sẽ thành lập Chính phủ nhân dân; áp dụng những nguyên tắc “tân kinh tế chính sách” (chính sách kinh tế mới). Điều này cho thấy nhãn quan chính trị sâu sắc và tầm vóc lớn lao của Hồ Chí Minh, không những với tư cách là người khai phá con đường mà còn là người chỉ ra cả nội dung, phương pháp, bước đi lên của cuộc cách mạng XHCN ở nước ta sau khi đã giành được độc lập.

Cần nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh lịch sử và truyền thống văn hóa của Việt Nam, Người không vận dụng một cách máy móc bất chấp những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Việc xây dựng CNXH cũng vậy, Người ca ngợi một Liên Xô hùng mạnh. Người khuyến khích học tập tinh thần thi đua yêu nước và  lao động sáng tạo của nhân dân Liên Xô nhưng Người  sớm nhắc nhở Bộ Chính trị ngay từ năm 1954 khi nước ta mới tiến hành xây dựng CNXH  ở miền Bắc rằng nếu trong xây dựng kinh tế, ta “làm trái với Liên Xô, đó cũng là mác-xít”(1). Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, quá trình tiến lên CNXH ở nước ta sẽ bao gồm những nội dung sau:

1. Phải tạo tiền đề chính trị cho cuộc cách mạng XHCN là giành độc lập, xây dựng chính quyền nhân dân do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ là điều kiện tiên quyết để có những bước đi thích hợp cho sự phát triển tiến lên theo con đường cách mạng XHCN. Vì vậy, Chương trình Việt Minh ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc phát-xít Nhật, sẽ lập lên chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”(2). Trên thực tế, Nhà nước mới của Việt Nam sau cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc (6-1-1946) đã được thành lập, tổ chức và hoạt động theo những chuẩn mực của một nhà nước pháp quyền. Những năm 70 của  thế kỷ XX, Đảng  ta mới dùng  thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhưng Hiến pháp năm 1946 và cách tổ chức, điều hành hoạt động của Nhà nước Việt Nam dưới thời Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước thực chất là khởi nguyên một nhà nước pháp quyền mà ngày nay Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân”.

2. Chế độ XHCN nhất thiết phải là một chế độ dân chủ thực sự của đa số, không phải chế độ dân chủ hình thức, dân chủ giả hiệu, dân chủ của  số  ít. Khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân  chủ Cộng  hòa, Chủ  tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định chế độ dân chủ của nước ta nhất thiết không phải là chế độ dân chủ tư sản, nó phải  là chế độ dân chủ của  toàn thể nhân dân các dân tộc Việt Nam mà nòng cốt là giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Nhà nước dân chủ Việt Nam có ba tính chất cấu thành, đó là tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc. Bản Tuyên ngôn độc  lập do Chủ  tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2-9-1945 khẳng định: “Chế độ mới bảo đảm  cho người dân Việt Nam quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do”. Một chế độ dân chủ như thế hoàn toàn không có ranh giới tuyệt đối giữa dân chủ nhân dân và dân chủ XHCN, có khác chăng chỉ ở mức độ và trình độ phát triển của nền dân chủ mà thôi.

3. Nếu quan niệm CNXH về thực chất phải là cuộc cách mạng xã hội trong đó nền công nghiệp và nông nghiệp đã được công nghiệp hóa, lực lượng sản xuất đã phát triển cao đòi hỏi phải xoá bỏ ngay chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất thì nước ta chưa có những điều kiện ấy. Đối với Hồ Chí Minh, CNXH là một mục tiêu lý tưởng, một sự phấn đấu lâu dài, là con đường muôn dặm. Là một nhà biện chứng và nhà hoạt động thực tiễn, nên Người chủ  trương không đốt cháy giai đoạn, không duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan, vội vàng xây dựng CNXH không tính toán kỹ những đặc điểm kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa của nước nhà. Hồ Chí Minh công khai tuyên bố về xây dựng CNXH ở Việt Nam ngay từ năm 1946 khi Người trả lời một nhà  báo nước ngoài:  “Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu Chủ nghĩa Mác... Muốn  cho  chủ  nghĩa  cộng  sản  thực hiện được, cần có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi những điều kiện ấy chưa có đủ”(3). Đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh  là ở chỗ Người không đặt ra một bức trường thành, một ranh giới tuyệt đối để chờ đợi khi có đủ điều kiện mới nghĩ tới tiến hành xây dựng CNXH ở Việt Nam mà Người đã căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm văn hóa dân tộc để đề ra những mục tiêu kết hợp ngay  từ khởi đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Việc giành chính quyền, xây dựng nhà nước pháp quyền, thiết lập nền dân chủ cộng hòa thực chất đã là  định hướng XHCN. Trong suốt hai cuộc chiến tranh chống đế quốc và thực dân để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhất quyết một đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Trong đường lối kiến quốc, xây dựng nền kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra đặc điểm to nhất của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, nhỏ, manh mún, lại chưa kinh qua giai đoạn phát triển TBCN nên “phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có  cơ  sở  để  phát  triển  các  ngành  kinh  tế khác..., để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà”(4). Người đã khẳng định: “Phải có một nền nông nghiệp phát triển thì công nghiệp mới có thể phát triển mạnh... nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh”(5). Đồng thời, Người nhấn mạnh: “Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích. Thế là thực hiện  liên minh công nông để xây dựng CNXH, xây dựng đời sống ấm no sung sướng cho nhân dân”(6). Người cũng lưu ý phải phát triển thương nghiệp để lưu thông hàng hóa, phục vụ sản xuất và tiêu dùng, đồng thời từng bước mở rộng giao thương hợp tác cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền của nhau.

4. Mục tiêu của CNXH, dù diễn đạt nhiều cách khác nhau thì về bản chất, ý nghĩa chân chính, đích thực của nó phải là cuộc phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính, là cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi mọi bất công và tàn bạo, là làm cho con người được tự do, bình đẳng và hạnh phúc. Mục tiêu cao đẹp ấy không phải là việc có thể thực hiện dễ dàng, có thể làm ngay. Theo Hồ Chí Minh, đó là con đường muôn dặm, phải từ hoàn cảnh của nước mình mà định ra chương trình kế hoạch chắc chắn, có biện pháp cụ thể, rồi quyết tâm lãnh đạo, đoàn kết nhân dân tiến dần lên một cách vững chắc. Phải làm cho nhân dân qua thực tiễn các phong trào cách mạng do Đảng lãnh đạo mà giác ngộ về CNXH, làm cho CNXH từ chỗ là mục tiêu, lý tưởng của Đảng trở thành nguyện vọng thiết tha và sự nghiệp của quảng đại quần chúng.

Chính vì vậy, sau Cách mạng Tháng Tám, khi chính quyền nhân dân còn trong trứng nước lại bị quân thù rắp tâm đánh đổ, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo Chính phủ đề ra “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân  chủ Cộng hòa” bao gồm sáu điểm để khắc phục những hậu quả của chế độ cũ để lại: Diệt giặc đói; diệt giặc dốt; tiến hành ngay cuộc Tổng tuyển cử toàn quốc để xây dựng Hiến pháp dân chủ (năm 1946); giáo dục lại cho nhân dân; bãi bỏ các loại thuế khóa vô nhân đạo do chế độ cũ quy định; tự do tín ngưỡng, lương, giáo đoàn kết.

Xã hội XHCN ở nước  ta, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải là một xã hội trong đó mọi tầng lớp dân chúng, ai ai cũng được nâng cao cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Nhà nước phải “làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(7).

Bằng cách nói giản dị, mộc mạc, nhiều lần Người đã cụ  thể hóa mục  tiêu của CNXH ở nước ta một cách vắn tắt, dễ hiểu, thiết thực như sau: CNXH “là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”(8). CNXH “trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(9). Tóm lại, CNXH  là  làm  sao  cho  “nước  giàu,  dân mạnh”(10), “dân giàu, nước mạnh” (11) và “dân giàu, nước sang”(12).

5. CNXH phải thực hiện nguyên tắc công bằng xã hội. Hướng phát triển của CNXH là một xã hội mà mọi người đều thực sự bình đẳng về mọi phương diện, nhưng đó là vấn đề của tương lai, của chủ nghĩa cộng sản, còn trước tiên, ngay từ khi nắm được chính quyền thì phải khẳng định ban bố và thực hiện ngay quyền bình đẳng về chính trị: bình đẳng dân tộc, bình đẳng nam nữ, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Bình đẳng đi liền với tự do: Tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do tín ngưỡng... Tất cả quyền tự do và bình đẳng đó đều được hiến định ngay từ bản Hiến pháp đầu  tiên  (năm 1946) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo.

Công bằng là nguyên tắc ứng xử và phân phối trong xã hội XHCN. Phân phối là khâu quan trọng của quan hệ sản xuất, nói lên bản chất  của  chế  độ. Vì  vậy, Chủ  tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tầm quan trọng của phân phối công bằng trong chế độ ta là: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”(13).  Nhưng theo Người, công bằng không có nghĩa là cào bằng, là chấp nhận một chủ nghĩa bình quân, chia đều nhau  sự  lười biếng và nghèo khổ. Người nói: “Đồng cam cộng khổ là một tinh thần cần phải có, nhưng nếu bình quân chủ nghĩa thì lại không đúng. Bình quân chủ nghĩa là gì? Là ai cũng như ai, bằng hết... Bình quân chủ  nghĩa  là  trái  CNXH, thế là không đúng”(14). Phân phối công bằng theo Người là phân phối  theo  số lượng và chất  lượng lao động. Do đó, nó còn  là sự kích  thích, động viên mọi người hăng hái thi đua học tập, nâng cao năng suất lao động, đồng thời trong nguyên tắc phân phối ấy lại phải có một phần để giải quyết chính sách xã hội - một biểu hiện tính ưu việt của CNXH. Người viết: “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu, trẻ con”(15).

6. CNXH ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa. Ngay sau khi thoát khỏi ách nô lệ, giành được chủ quyền quốc gia thì phải xây dựng một nền văn hóa mới theo tinh thần dân tộc và khoa học. Nghĩa là “phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân  tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập”(16). Xây dựng nhân dân Việt Nam trở thành một dân  tộc có nền văn hóa  tiên  tiến  là  tâm huyết suốt đời của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Ngay từ khi còn trong nhà giam của Quốc dân Đảng (Trung Quốc), Người đã phác thảo “Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc” gồm: “1) Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường. 2) Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng. 3) Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội. 4) Xây dựng  chính  trị: Dân quyền. 5) Xây dựng kinh tế”(17). Xã hội XHCN ở Việt Nam phải là một xã hội có văn hóa, loại bỏ được hủ tục, thói hư tật xấu, sự nhu nhược, dốt nát, yếu hèn; phải xây dựng đời sống mới, làm cho từng người có văn hóa,  từng nhà có văn hóa, từng làng có văn hóa. Hồ Chí Minh đã viết: “Do nhiều người nhóm lại mà thành làng. Do nhiều làng nhóm lại mà thành nước. Nếu người này cũng xấu, người kia cũng xấu, thì thành làng xấu, nước hèn. Nếu mỗi người đều tốt, thì thành làng tốt, nước mạnh. Người là gốc làng nước. Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân  tộc  nhất  định  sẽ  phú  cường”(18). Theo Người, đời sống mới của một người Việt Nam, bất kể giàu hay nghèo, già hay trẻ, gái hay trai, đều gồm mấy điểm:

“Về tinh thần, một là sốt sắng yêu Tổ quốc. Việc gì có lợi cho nước phải ra sức làm. Việc gì hại đến nước, phải hết sức tránh./ Hai là sẵn lòng công ích. Bất kỳ việc to việc nhỏ, có ích chung thì phải hăng hái làm.../ Ba là mình hơn người thì chớ kiêu căng./ Người hơn mình, thì chớ nịnh hót./ Thấy của người  thì chớ  tham lam./ Đối với mình thì chớ bủn xỉn./ Cách ăn mặc phải sạch sẽ, giản đơn, chất phác, chớ lượt thượt, xa xỉ, loè loẹt./ Cách làm việc phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn. Chớ làm dối./ Cách cư xử, đối với đồng bào thì nên thành thực, thân ái, sẵn lòng giúp  đỡ./ Biết ham học... Biết rồi ta học thêm…/ Ai  cũng  làm  như  thế,  thì  tự  nhiên nước Việt Nam ta trở nên một nước mới, một nước văn minh”(19).

7. Xây dựng CNXH không thể và không phải là công việc đơn giản, dễ dàng, nó là một sự nghiệp vĩ đại đòi hỏi phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ nhưng nếu toàn dân đồng tình, đồng tâm hiệp lực thì nhất định thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích: “Biến đổi một xã hội cũ  thành một xã hội mới, không phải là chuyện dễ. Nhưng đó là khó khăn trong sự  trưởng  thành. Toàn Đảng,  toàn dân đồng sức, đồng lòng thì khó khăn gì cũng nhất định khắc phục được”(20). Nhiều  lần Chủ  tịch Hồ Chí Minh đã nói, CNXH không phải từ trên trời rơi xuống, nó cũng không phải được xây nên bởi những con người vị kỷ, gian manh, mánh khóe và lừa lọc, nó cũng không thể xây nên bằng những người kém hiểu biết mà lại luôn luôn “nhiệt tình bằng đầu óc” mà không có “đầu óc của nhiệt tình” (theo cách nói của C.Mác). Khi nói chuyện với Đại hội Đảng bộ TP. Hà Nội (năm 1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Muốn xây dựng CNXH, phải có con người XHCN và có tư tưởng XHCN”(21).

Con người XHCN phải có đức, có tài, nghĩa là phải “vững về chính trị, giỏi về chuyên môn”, là  con  người  “hồng  thắm  chuyên  sâu”.  Tư tưởng XHCN là sự giác ngộ về lý tưởng cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân. Trên thế giới đã từng có một Liên Xô hùng vĩ, nối liền với các nước Đông âu thành một hệ thống như là hiện thân lý tưởng của CNXH, nhưng rồi vì nhiều lý do nên không còn nữa. Nhưng Việt Nam vẫn kiên trì con đường độc lập, tự do gắn với CNXH như một sự lựa chọn tất yếu. Thực tiễn trong quá trình đổi mới và phát triển đã chứng minh tính đúng đắn của CNXH ở Việt Nam. Năm 1956, khi nói chuyện với các nhà sư phạm ở Hà Nội về con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán, có lịch sử địa lý khác… ta thấy ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(22)

-----

  1. HồChíMinh,Biênniêntiểusử,NXB CTQG, H.1995, tập 5, tr .572. (2, 17) Hồ Chí Minh toàn tập, H.2011, tập 3, tr .629, tr .458. (3, 16) Sách đã dẫn (sđd), tập 4, tr .315, tr .7. (4, 5, 9, 21) Sđd, tập 12, tr .8, tr .413, tr .415, tr .12. (6, 8, 20) Sđd, tập 13, tr .376, tr .78, tr .8. (7, 18, 19) Sđd, tập 5, tr .81, tr .116, tr .117-118. (10, 12) Sđd, tập 7, tr .552, tr .348. (11) Sđd, tập 1, tr .560. (13) Sđd, tập 15, tr .224. (14, 15, 22) Sđd, tập 10, tr .583, tr .14, tr .391.

Kỳ 4: Giá trị minh triết của dân tộc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

1.Minh triết và giá trị minh triết kinh tế trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Minh triết là gì? Theo nghĩa Hán Việt, minh triết chỉ sự hiểu biết sâu rộng, hoặc hành động khôn ngoan nào đó của con người, sự vật, sự kiện hoặc hoàn cảnh, kết quả của khả năng lựa chọn, hành động để tạo ra kết quả tốt nhất với thời gian và năng lượng ít nhất. Người minh triết là người có khả năng nhận thức được đúng hay sai, đi liền với các đánh giá về hành động thực tế. Minh triết cũng được coi là từ đồng nghĩa với thông thái, sáng suốt, thông tuệ. Từ điển Hán  - Việt của học giả Đào Duy Anh định nghĩa từ kinh tế như sau: “Nguyên là chữ kinh bang tế thế, là sửa nước cứu đời, hoặc kinh thế, tế dân, là trị đời, giúp dân. Sau người Nhật dùng với nghĩa mới để dịch chữ économie của Tây. Ngày nay phàm cái gì có quan hệ đến việc lợi dụng hậu sinh (sự dồi dào của đời sống) đều gọi là kinh tế”. Từ điển Hán - Việt của GS. Nguyễn Lân cũng có định nghĩa tương tự: “Kinh tế: cứu giúp. Do câu kinh bang tế  thế,  có nghĩa  là  trị nước,  cứu đời, người Nhật  dùng  để  chỉ  từ  economie  của  phương Tây”.

Một học giả nổi tiếng của Việt Nam thời cận đại - ông Đặng Huy Trứ (1825-1874) là một vị quan thanh liêm, nhà Nho, trí thức yêu nước chân chính. Những việc ông làm đã nêu tấm gương “liêm cần” trong chốn quan trường. Ông lo tự cường dân nước, đánh  đuổi bọn ngoại xâm, khôi phục lại độc lập, chủ quyền cho đất nước. ông đã có tư tưởng kinh tế rất minh triết. ông là người Việt Nam đầu tiên đặt ra và giải quyết vấn đề đạo đức  của những người làm kinh tế dưới thời nhà Nguyễn. ông viết: “Làm ra của cải là một đạo lý lớn không được coi thường”. Đó là vấn đề quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, giữa lợi ích kinh tế và đạo tâm trong sáng mà người làm kinh tế phải giữ.

Về quan hệ giao thương, hội nhập, câu đối sau đây của ông cho tới nay vẫn có một ý nghĩa minh triết đáng trân trọng, giữ gìn: “Lợi lộ tứ phương tuy quảng khoát/ Đạo tâm nhất phiến mỗi căng trì” (nghĩa là: Đường lợi bốn phương tuy rộng mở, đạo tâm một tấm chẳng thể suy vi). Đặng Huy  Trứ  coi  trọng  dân:  “Dân  vi quý”, suốt đời vì dân, tư tưởng thân dân của ông mang  tính nhân văn  - nhân bản cao cả.

Như vậy, trong văn hóa truyền thống của người Việt Nam hai chữ kinh tế có hồn, cốt, tinh hoa minh triết giúp nước, cứu đời, cứu dân. ích lợi của kinh tế là hướng tới những mục tiêu cộng đồng - dân tộc - xã hội - con người. Không thể và không chỉ là hoạt động sinh lợi đơn thuần, hoặc chỉ là đạt tới một lượng của cải dồi dào, một lượng tiền nhiều, nhiều hơn nữa cho một số người.

2.CNXH ở Việt Nam với tư cách là một chế độ nên việc xây dựng nền kinh thị trường của  ta  tất  yếu  phải  mang  tính  định  hướng XHCN. Định hướng ấy phù hợp với tinh thần dân tộc vốn có giá trị minh triết giúp nước, cứu đời, cứu dân. Nền kinh tế thị trường ở chế độ nào cũng đều làm giàu, tìm kiếm sao cho có nhiều lợi nhuận. Nghĩa  là  làm  sao có nhiều tiền của. Nhưng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của ta có sự khác biệt, chế độ ta không cho phép doanh nghiệp có thể kinh doanh vô đạo, tham lam vô sỉ, đê tiện, kiếm tiền bằng bất cứ giá nào như C.Mác đã nói: “Tiền biến trung thành phản, yêu thành ghét, ghét thành yêu, đức hạnh thành thói xấu, thói xấu thành đức hạnh,  tớ thành chủ, chủ thành tớ, ngu thành khôn, khôn thành ngu..., cho nên nó là sự lẫn lộn phổ biến và sự thay thế phổ biến mọi sự vật, nghĩa là thế giới lộn ngược, là sự lẫn lộn và sự thay thế tất cả những phẩm chất tự nhiên có tính người”(1).

Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước  được  phân  bổ  theo  chiến  lược,  quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường.

Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh  tranh  bình  đẳng,  minh  bạch  và  lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn  lực  của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội”(2)…

“Chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước. Phát huy vai trò quyết định của nội lực, đồng thời, thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp FDI và khu vực sản xuất nông nghiệp”(3)...

Kể từ sau khi gia nhập WTo (ngày 11-1-2007), nền kinh tế Việt Nam có những bước tăng trưởng khá, đời sống của nhân dân được cải thiện, chúng ta đã bước vào giai đoạn hội nhập trực tiếp với nền văn minh công nghiệp và giao thương có tính toàn cầu. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua một thực tế là từ khi bước vào thời đại văn minh công nghiệp hiện đại tới nay, thế giới của chúng ta vẫn chưa thoát khỏi: “Lòng tham lam đê tiện là linh hồn của thời đại văn minh từ ngày đầu của thời đại ấy cho đến tận ngày nay; giàu có, giàu có nữa và luôn luôn giàu có thêm. Không phải là sự giàu có của xã hội, mà là sự giàu có của cá nhân riêng rẽ nhỏ nhen đó là mục tiêu quyết định duy nhất của thời đại văn minh, văn minh của chủ nghĩa tư bản”(4). Vì vậy muốn đạt tới sự giàu có, văn minh như ước vọng vô cùng tốt đẹp của Đảng ta thì nền KTTT định hướng XHCN phải khắc phục  được  vấn  nạn  nói  trên. Nghĩa  là  phải hướng kinh tế vào phục vụ con người, cộng đồng, phải gia  tăng  tính ĐẠO LỚN – TÍNH NGƯỜI - một giá trị minh triết truyền thống của dân tộc - trong đó có đạo lý và pháp lý - cho  tất cả những ai muốn dấn  thân vào con đường kinh doanh làm giàu. Làm giàu không chỉ cho mình, vì mình với bất cứ giá nào mà còn phải vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một trong những vấn đề cơ bản và đang có tính cấp bách của xã hội chúng ta hiện nay.

3.Mỗi thời đại kinh tế đều sản sinh ra đội ngũ doanh nhân với những phẩm  chất và  tài năng phù hợp với thời đại. Nền KTTT hiện đại đã hình thành và phát triển cho đến nay đã trên 300 năm, trong đó thời đại kinh tế công nghiệp kéo dài từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20. Thế hệ doanh nhân ấy đã tạo ra và tích luỹ cho họ một số lượng của cải khổng  lồ,  làm cho CNTB phát  triển nhưng phải trả những cái giá quá đắt về mặt xã hội  và môi  trường mà  nhân  loại  phải  gánh chịu. Đồng  thời,  họ  cũng  tạo  ra  tiền  đề  về nhiều mặt để chuyển sang cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ tư (4.0), thời đại kinh tế mới được gọi là nền kinh tế số hóa, kinh tế tri thức với những đặc điểm là: Vốn tri thức và đội ngũ những nhà khoa học - kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò quyết định sự phát triển của kinh tế - xã hội; thành thế mạnh cạnh tranh trên toàn cầu. Do đó, mục tiêu kinh doanh đang chuyển từ tăng trưởng của cải là ưu tiên số một, là ưu tiên hàng đầu sang kết hợp giữa tăng trưởng vật chất (của cải) và phát triển con người. Sự phát triển con người trong KTTT hiện tại đang phải chuyển mạnh từ con người kinh  tế  sang  con người văn hóa,  con người khoa học và kỹ thuật. Sự phát triển này đã tạo ra sự biến đổi lớn lao chưa từng có trong quan hệ quốc tế là hợp tác cùng có lợi, vì vậy toàn cầu hóa đang diễn ra như một xu thế tất yếu của lịch sử. Tính khách quan này đòi hỏi sự ra đời của một thế hệ doanh nhân mới với những phẩm chất và năng lực hoàn toàn mới. Rõ ràng đội ngũ doanh nhân như thế của Việt Nam  mới  chỉ  phôi  thai,  đang  cần  sự  nuôi dưỡng và phát triển về nhiều mặt.

Nền KTTT định hướng XHCN ở nước  ta trong vài thập niên vừa qua xác định vai trò của doanh nhân như một đạo quân chủ lực để xây dựng và phát triển kinh tế. Do đó, đội ngũ doanh nhân Việt Nam đã có bước trưởng thành đáng kể và họ đã có những đóng góp quan trọng. Tuy nhiên, đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế đất nước theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế hiện nay và trong nhiều năm tới thì đội ngũ doanh nhân nước ta còn non yếu, có nhiều bất  cập. Do đó, việc xây dựng năng  lực và nhân cách, nói gọn là xây dựng bản lĩnh, ước vọng  và  khát  khao  cống  hiến  của  đội  ngũ doanh nhân Việt Nam đang là đòi hỏi hết sức cấp bách. Có thể khẳng định sự trưởng thành của họ giữ vai trò là đội quân chủ lực góp vào sự thành bại trong quá trình công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà.

Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH. Bản thân nó vẫn còn đang trong tình trạng yếu kém về khoa học - công nghệ, kỹ  thuật, quản  lý,  luật pháp và kinh nghiệm giao thương quốc tế cả ở tầm vĩ mô và vi mô cùng với hiện tượng suy thoái về đạo đức trong kinh tế, kinh doanh, quản lý đất nước và trong đời sống xã hội. Do xu thế khách quan tất yếu buộc phải gia nhập ngay nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa thì đây quả là một vấn đề lớn của đất nước mà việc vận dụng những giá trị minh triết Việt vào xây dựng nhân cách doanh nhân Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế là hết sức cấp  thiết. Nó có ý nghĩa như  tìm về nguồn lực nội sinh tiềm tàng của dân tộc tựa như 100 năm về trước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi hãy biết phát huy sức mạnh  tinh thần của nền văn hóa dân tộc mà đem sức ta giải phóng cho ta.

Trong khi Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học - công  nghệ,  nhất  là  cuộc  Cách  mạng  công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”, thì việc nghiên cứu vận dụng những giá trị minh triết Việt không chỉ có ý nghĩa cụ  thể  trong việc xây dựng nhân cách doanh nhân mà nó còn góp phần vào việc xây dựng tư tưởng - chính trị - đạo đức trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn xã hội, làm cho kinh tế phát triển thì “cái tốt nở hoa, cái xấu mất dần đi”… làm cho “dân giàu, nước mạnh” và “dân giàu, nước sang” như Bác Hồ từng căn dặn. Rõ ràng nền kinh tế và minh triết - an sinh xã hội luôn gắn với nhau, là điều kiện và tạo tiền đề cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Nó là một thể thống nhất và nó phải trở thành bản chất của nền KTTT định hướng XHCN của nước ta hiện nay và trong tương lai.

-----

(1), (4) Mác và Ăng-ghen  tuyển  tập, NXB ST, H.1980,  tập 1,  tr .135;  tập 6,  tr .271. (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016.

 Kỳ 5: Xây dựng người Việt Nam trong giai đoạn mới để biến khát vọng thành hiện thực

C.Mác  bằng  thiên  tài  khoa  học  của mình đã chỉ ra quá  trình phát  triển của các hình thái kinh tế - xã hội sẽ dẫn đến xã hội XHCN như là quá trình phát triển của  tự nhiên. ông cũng đã chỉ ra một cách khoa học về con đường để đi  tới mục tiêu. Nhưng chính ông đã có một phát hiện quan trọng về vai trò của con người trong sự phát triển tự nhiên ấy. Phát hiện của ông được ghi vào Từ điển danh ngôn như sau: “Lịch sử không làm gì cả, nó không tạo ra vô vàn của cải, nó không chiến đấu. Chính con người, con người  thật sự đang sống, đã  làm  tất cả những điều đó”. Và chính “bản  thân xã hội sản xuất  ra con người với  tính cách  là con người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế”(1).

Người Việt Nam đang sống ở thời đại cách mạng 4.0. Thời đại nào cũng có những yêu cầu riêng phụ thuộc vào yêu cầu sản xuất, quản lý xã hội ở thời kỳ đó. Nếu chúng ta không nỗ lực mau chóng vươn lên khắc phục tình trạng yếu kém hiện nay thì những mục tiêu mà Đại hội XIII của Đảng đề ra chỉ là viễn tưởng. Thực trạng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam hiện nay đã được Đại hội XIII của Đảng đánh giá khái quát như sau: “Thể chế kinh  tế  thị  trường  định  hướng  XHCN  còn nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ. Năng lực xây dựng thể chế còn hạn chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh  bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn  lực phát  triển. Thể  chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hóa bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo.

Năng lực và trình độ công nghệ của nền kinh tế còn thấp. Công nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỉ lệ nội địa hoá thấp, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu hiệu quả còn hạn chế; tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm lại; chất lượng nhiều dịch vụ thấp.

Nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện tái cơ cấu và đổi mới cơ chế quản trị còn chậm; thoái vốn, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn gặp vướng mắc cả về thể chế và tổ chức thực hiện; hiệu quả sản xuất, kinh doanh còn thấp; tình trạng nợ, thua lỗ, lãng phí còn lớn; tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, giải ngân đầu  tư  công  còn  hạn  chế.  Phần  lớn  doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính và quản trị yếu. Nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài công nghệ trung bình, gia công, lắp ráp, thiếu gắn  kết,  chuyển  giao  công  nghệ,  thúc  đẩy doanh nghiệp trong nước phát triển. Kinh tế hợp tác phát triển yếu, kinh tế tập thể chưa làm tốt vai trò liên kết, hỗ trợ kinh tế hộ. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển thiếu đồng bộ”... Nhìn thẳng vào sự thật để tìm cách khắc phục là thái độ tích cực, khiêm nhường và thông minh đúng như V.I.Lê-nin đã  từng nhắc lại lời của Ph.ăng-ghen, đại ý rằng: Cái gì có thể áp dụng đối với cá nhân con người, thì tuy mức độ có khác nhau, cũng có thể áp dụng vào chính  trị và các chính đảng được. Người thông minh không phải là người không phạm  sai  lầm.  Không  có  và  không  thể  có những  người  không  phạm  sai  lầm.  Người phạm sai  lầm, biết nhanh chóng nhận  ra sai lầm, tìm nguyên nhân và đề ra chủ trương, biện pháp khắc phục có hiệu quả  là người  thông minh. Sự vĩ đại của vĩ nhân và các chính đảng được sản sinh chính từ sự thông minh ấy.

Chủ  tịch  Hồ  Chí  Minh  đã  khẳng  định CNXH  không  phải  từ  trên  trời  rơi  xuống. CNXH là chế độ xã hội do nhân dân tin tưởng và cùng đồng lòng xây dựng. Muốn có CNXH thì nhất thiết phải có con người XHCN. Theo quan điểm  của Chủ  tịch Hồ Chí Minh,  con người XHCN có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Nó  vừa  kế  thừa  những  giá  trị  truyền thống tốt đẹp của quá khứ, vừa có những phẩm chất mới đáp ứng những yêu cầu mới mà thời họ đang sống đòi hỏi.

Điều quan trọng nhất hiện nay là vấn đề giáo  dục  đạo  đức,  nhân  cách  và  khát  khao cống hiến cho lớp người trung niên và thanh thiếu niên - những người đã, đang và sẽ tiếp nối gánh vác  sự nghiệp cách mạng của đất nước. Trước tiên là vấn đề tôn trọng quá khứ, chúng ta không được phép quên quá khứ anh dũng, đau thương và quật cường của dân tộc, phải biết ơn sự hy sinh của các thế hệ trước đã để lại cho ta cuộc sống hôm nay. Do vậy phải biểu thị lòng biết ơn ấy bằng sự khát khao cống hiến, phấn đấu để phát huy truyền thống làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi, phải như Bác Hồ  đã  dạy  thế  hệ  sau  phải  hơn  thế  hệ trước, “con hơn cha là nhà có phúc” và theo như lời khuyên của C.Mác là thế hệ sau phải biết đứng lên vai thế hệ trước mà tiến lên. Vấn đề quan trọng nhất là lực lượng giáo dục: Gia đình (các bậc cha mẹ, anh chị), xã hội (cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, các tổ chức xã hội, đặc biệt là Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ), nhà trường (các nhà quản  lý giáo dục, nhà giáo). Tất cả  lực lượng giáo dục ấy cần phải ghi nhớ lời dạy của C.Mác: Đã đến lúc các nhà giáo dục cũng cần phải giáo dục, nghĩa là phải tự chỉnh đốn để làm gương và đủ khả năng giáo dục cho thế hệ mới một cách thuyết phục.

Thứ hai, phải nâng cao lòng tự hào, lòng tự trọng và biết xấu hổ. Tự hào thể hiện ở sự hãnh diện, mãn nguyện về cái mà nhân dân, dân tộc mình đã làm được và những thành tựu mà ta đang có. Tự hào để tiếp tục nuôi khát vọng,  để  vượt  cao  hơn  chính mình,  nỗ  lực vươn  lên những đỉnh cao mới. Tự hào đúng mực đòi hỏi một sự tự trọng và khiêm nhường. Nếu tự hào quá mức hoặc không đúng thì lại là sự hợm hĩnh, phô trương, kiêu ngạo và lố bịch. Tự trọng và xấu hổ là hai khái niệm gần như đồng nghĩa. Nó đều là loại tự ý thức về nhân cách của mình, về danh dự, phẩm giá của mình. Nó là cái tiềm ẩn ở trong mỗi con người cũng như mỗi dân tộc. Tự trọng làm cho người ta tự biết những giá trị tốt đẹp đích thực của mình để giữ gìn,  trân  trọng và phát huy. Tự trọng  bao  giờ  cũng đi liền với sự khiêm nhường, có chừng mực, biết đánh giá đúng mình và đúng người, biết nhận ra những cái lố bịch, xấu xa, hèn kém của bản thân, làm cho người ta tự hào đúng mực về cái mình có, tự hổ thẹn về sự thấp hèn, yếu kém của chính mình. Và chính vì thế mà từ sâu thẳm trong tâm hồn con người ta toát ra một sức mạnh, một ý chí vươn lên. Tự trọng khác tự hào. Tự hào thể hiện ở sự hãnh diện, mãn nguyện về cái mình đã  làm được, cái mình đang có. Tự hào đúng mực đòi hỏi một sự tự trọng; nếu tự hào quá mức, hoặc không đúng thì lại là sự hợm hĩnh, phô trương, kiêu ngạo và lố bịch, lại là tự hạ thấp mình mà không biết xấu hổ. C.Mác viết: “… Tính tự cao, tự đại của tư duy… bao giờ cũng đi song song với sự phiến diện và tính tự hạ mình của hiện thực”(2). Một con người cũng như một dân tộc cần phải biết tự hào và tự trọng, lại càng cần đề phòng  thừa  lòng  tự hào -  tự hào quá mức, không đúng và thiếu lòng tự trọng. Vì thừa hay thiếu đều kệch cỡm, đáng xấu hổ.

Theo C.Mác,  làm cách mạng phải biết  tự hào, tự trọng và xấu hổ. Trong thư gửi ru-giơ, ông đã viết về tình trạng nước Đức năm 1843 như sau: “… Nước Đức đã lún sâu hơn. Bạn hãy tin rằng kẻ ít cảm thấy tự hào dân tộc nhất cũng không thể không lấy đó làm điều quốc sỉ… Đây  là một sự  thật  ít ra cũng phơi  trần trước mắt chúng ta sự trống rỗng của chủ nghĩa yêu nước của chúng ta, cái thân hình quái dị của chế độ nhà nước chúng ta và buộc chúng ta phải che mặt lại vì xấu hổ…”, “… xấu hổ là một loại cách mạng… xấu hổ là một loại nổi giận nhưng chỉ hướng vào bên trong. Và nếu như cả một dân tộc thực sự cảm thấy xấu hổ thì nó sẽ giống như một con sư tử thu mình lại để chuẩn bị nhảy”(3).

Tổ quốc ta, nhân dân ta vì có lòng tự hào dân tộc, tự trọng về danh dự và phẩm giá của mình và biết xấu hổ vì bị mất nước, bị làm nô lệ, bị nghèo nàn, lạc hậu mà vùng đứng lên làm cách mạng - cách mạng dân tộc dân chủ, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng dựng xây, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam. Chúng ta đã biết “thu mình lại” và cũng đã biết “vùng dậy”. Chúng ta đã “nhảy” và sẽ còn có những bước “nhảy” mạnh hơn, tiến xa hơn để mau tới đích: Dân tộc ta thật giàu, nước ta thật mạnh, xã hội ta thật công bằng, dân chủ, văn minh để tiến tới đài vinh quang, sánh vai với  các  cường quốc năm châu như Bác Hồ mong muốn, nếu như mỗi người chúng ta ai ai cũng đều biết tự trọng và biết xấu hổ khi làm những việc mất nhân  tính như  tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, chạy bằng cấp, học hàm, học vị, chạy quan hệ và chạy tội, si mê quyền lực, tranh giành chức vị, bổng lộc, lãng phí, quan  liêu, vi phạm quyền  làm  chủ  của nhân dân. Về phương diện khoa học và công nghệ, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta càng cần phải biết xấu hổ vì mình mang danh là một dân tộc anh hùng, bất khuất, có một nền văn hiến đã lâu mà hiện nay vẫn đang còn lạc hậu, chạy theo vết xe công nghệ cũ của thế giới…

Thiết nghĩ, biết tự trọng và biết xấu hổ chính là cách chúng ta biểu lộ lòng trung thành tuyệt đối với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng  là cách chúng  ta  tỏ  lòng thành kính, biết ơn các vị tiền nhân, các anh hùng,  liệt  sĩ  và  tất  cả  những  ai  đã  đổ máu xương, mồ hôi, nước mắt để có một Việt Nam ngày nay. Sự dối trá, lừa mị, nói không đi đôi với làm, nói một đằng làm một nẻo, nói ít làm nhiều đó chính là thiếu tự trọng và rất đáng xấu hổ mà mỗi chúng  ta đang cần,  rất cần khắc phục để góp sức mình đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống.

Thứ  ba,  phải  nuôi  dưỡng  chí  khí  cách mạng. Cách mạng là “sự phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”. Một điều hiển nhiên là lịch sử phát triển của loài người từ trước tới nay đều tiến lên thông qua các  cuộc  cách mạng. Theo C.Mác,  để  hiểu được khái niệm “cách mạng” chúng  ta phải “đứng trên quan điểm chỉnh thể” mà thấy rằng, dù cuộc cách mạng ấy chỉ diễn ra ở một địa phương, một lĩnh vực thì ý nghĩa chân chính và  đích  thực  của  nó  cũng  đều  là  “sự  phản kháng của con người chống lại cuộc sống mất nhân tính”; là sự phản kháng của cộng đồng chân chính chống lại sự bất công, tàn bạo đối với  con  người,  chống  lại  những  gì  hạ  thấp phẩm giá của con người. C.Mác khẳng định: “Mỗi cuộc cách mạng đều phá hủy xã hội cũ và vì thế nó mang tính chất xã hội. Mỗi cuộc cách mạng đều lật đổ chính quyền cũ và bởi vậy nó có  tính chất chính  trị”(4). Cách mạng chính trị dù vô cùng quan trọng nhưng mới chỉ lật đổ chính quyền cũ của giai cấp này, thiết lập chính quyền mới của giai cấp khác. Việc lật  đổ  xã  hội  cũ,  thiết  lập  xã  hội mới  theo đường lối của giai cấp công nhân, tức là làm cuộc cách mạng XHCN thì theo C.Mác, sau này cả V.I.Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc giành được chính quyền mới chỉ là bước đầu  trên con đường muôn dặm để chống  lại cuộc sống mất nhân tính, hay nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh là chống lại cái ác, trước tiên là chống lại cái mất nhân tính từ trong bản thân mình. Điều đó có nghĩa  là đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân  sẽ đứng trước những trở lực mới, nhiều khi lại là những chướng ngại từ bên trong, thậm chí là kẻ thù ở bên trong: Chủ nghĩa cá nhân. C.Mác chỉ ra rằng:  “Giai  cấp  nào  vừa  giành  được  chính quyền “cũng đều dựng lên những chướng ngại của chính mình trước khi kịp vượt qua những chướng ngại trước mặt mình, cũng đều biểu lộ cái bản chất nhẫn tâm của mình trước khi biểu lộ cái bản chất độ lượng của mình. Lời dạy này của C.Mác đã giúp ta hiểu rõ hơn câu nói ngắn gọn mà thâm thúy của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: Muốn cách mạng, mạng phải cách, muốn làm cách mạng thì trước hết phải cải tạo tâm tính của bản thân mình. Những chướng ngại của chính mình  rất dễ  làm  ta bị dừng bước, thậm  chí  thất  bại  trước  những  chướng  ngại trước mặt và do đấy sẽ làm cho “mỗi lĩnh vực của xã hội công dân cũng đều nếm mùi thất bại trước khi kịp ăn mừng thắng lợi của mình”(5).

Điều này đã được Nghị quyết Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam minh chứng bằng Báo cáo tổng kết tình hình đất nước ta sau 10 năm giành thắng lợi và chỉ ra những bài học cần ghi nhớ.

Nhờ đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, thấy rõ những “chướng ngại của chính mình”, liên tục tìm cách khắc phục những sai lầm cũ rồi  trong  sự  phát  triển  lại  phải  khắc  phục những sai lầm nghiêm trọng mới như 3 Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII và XIII) đã chỉ  ra.  Sau  hơn  35  năm  đổi mới,  rất  nhiều “chướng ngại trước mặt mình” đã được vượt qua, những thắng lợi giành được thật to lớn!

Bài học rút ra từ lời dạy của C.Mác và kinh nghiệm  thực  tiễn  của Đảng  ta  là:  Sau một chặng đường đấu tranh giành thắng lợi dù vĩ đại đến đâu thì chủ thể của những thành tựu ấy bao giờ  cũng  lại đứng  trước những  chướng ngại mới của chính mình và tiếp tục gặp không ít những chướng ngại mới trước mặt. Sự thách đố  của  lịch  sử  là  ở  chỗ  chủ  thể  ấy  có  biết “thắng không kiêu, bại không nản” mà nhận ra và có khả năng vượt qua được những chướng ngại của chính mình hay không? Nếu không biết vượt qua được chính mình thì mỗi bước đi lại thêm khốn đốn. Vượt qua chướng ngại của chính mình  là  điều  tiên  quyết  để  vượt  qua chướng ngại trước mặt.

Lịch sử phát triển theo đường xoáy ốc, nó sẽ lặp lại ở một trình độ cao hơn, tinh vi và phức tạp hơn. Sau hơn 35 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn là những “chướng ngại mới của chính mình”, những trở lực, nguy cơ và thách thức mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một  số  cơ quan Trung ương và địa phương chưa đều, chưa thật đồng bộ. Công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi. Những chướng ngại trước mắt không nhỏ và còn nhiều, nhưng tin tưởng: Không chướng ngại nào mà những người cộng sản chân chính không thể vượt qua bởi họ đã biết nhận ra chướng ngại của chính mình. Vấn đề  là ở chỗ họ biết đoàn kết, có nhiệt tình và dũng cảm vượt qua.

Nhiệt tình tựa như ngọn lửa bùng cháy, là động lực của tất cả. Ở đây là vấn đề quan hệ giữa lý trí và tình cảm. Nói đến lý trí là nói tới sự hiểu biết, đến nắm vững chân lý khoa học, đến lý tưởng, đến tri thức của thời đại, do đó con người mới có tự do trong hành động, sáng tạo. Lý trí và tình cảm hòa quyện với nhau trở thành đời sống lý tưởng của con người, thành niềm tin sắt son của con người, nó làm cho con người có tình yêu thương lớn, sự dũng cảm lớn và sự trung thành; nó nâng đỡ tinh thần con người, giúp con người vượt qua mọi cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, tôn trọng phẩm giá con người để sống cao thượng. Tất cả những cái đó làm cho con người luôn luôn phấn đấu, luôn học hỏi và say mê sáng tạo. Chỉ  có  như  vậy  đất  nước  ta,  dân  tộc  ta, Đảng ta mới có những thế hệ tiếp nối vừa giỏi về khoa học công nghệ, vừa có  tình yêu Tổ quốc và Nhân dân, họ xứng đáng đứng trong hàng ngũ của những người đấu  tranh chống lại những cái mất nhân tính của thời đại hiện nay, biến khát vọng về một đất nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc trở thành hiện thực.

-----

(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen  toàn  tập, NXB Sự thật, H.1995, tập 3, tr .55. (2), (3), (4), (5) C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập, NXB Sự thật, H.1978, tập 1, tr .553; tr .488; tr .585-586, tr .559.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất