Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng về bảo đảm an sinh xã hội
Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng với điểm cầu chính tại Phòng họp Diên Hồng, nhà Quốc hội (Hà Nội) và các điểm cầu tại các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương. Ảnh: TTXVN.

Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã có nhiều chủ trương, biện pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực an sinh xã hội. Việc đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực an sinh xã hội ngày càng được chú trọng, các chủ trương, đường lối được đề ra dựa trên cơ sở thực tiễn, phát huy dân chủ, gắn với xây dựng kế hoạch và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Các ban, ngành, đoàn thể đã chủ động bám sát tình hình thực tế tại địa phương từ đó tham mưu cho Đảng, Nhà nước để đưa ra chỉ đạo cụ thể, kịp thời nhằm giải quyết dứt điểm một số vấn đề đặt ra, đảm bảo quyền lợi cho nhân dân. Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, Đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu cơ quan nhà nước các cấp được phát huy. Công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh. Cải cách hành chính trong Đảng được quan tâm, việc ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa dữ liệu trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội đã có nhiều kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực an sinh xã hội còn lúng túng, bất cập… Vì vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo cuộc sống cho nhân dân, hướng tới một quốc gia hạnh phúc và phát triển là yêu cầu tất yếu khách quan mà thực tiễn đã và đang đặt ra.

1. Một số nội dung cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực bảo đảm an sinh xã hội 

Một là, đảm bảo an sinh xã hội cho người dân thông qua đường lối, chủ trương. An sinh xã hội là hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện nhằm đảm bảo cho mọi người dân ít nhất có được mức tối thiểu về thu nhập, có cơ hội tiếp cận ở mức tối thiểu về các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... Xác định được vai trò quan trọng của an sinh xã hội, Đảng đã đưa ra nhiều đường lối chủ trương thiết thực vừa đảm bảo cuộc sống cho nhân dân vừa nâng cao vai trò, tầm quan trọng của Đảng trong lòng dân. Tiếp tục phát triển quan điểm, chủ trương đó của Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991 và bổ sung, phát triển năm 2011) và nghị quyết của các kỳ đại hội, đặc biệt Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 1-6-2012, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020”[1] đã đặt ra yêu cầu: Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ...; đồng thời thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, đảm bảo mức sống tối thiểu và hỗ trợ kịp thời người có hoàn cảnh khó khăn; coi bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã hội bao phủ toàn dân với các yêu cầu: bảo đảm người dân có việc làm, thu nhập tối thiểu; tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH); bảo đảm hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi thu nhập thấp, người khuyết tật nặng, người nghèo,…); bảo đảm cho người dân tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin), góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.

Hai là, đảm bảo an sinh xã hội bằng chính sách, hệ thống pháp luật cụ thể. Chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam được chia làm 4 nhóm cơ bản: Nhóm chính sách việc làm đảm bảo thu nhập tối thiểu và giảm nghèo: hỗ trợ người dân chủ động phòng ngừa các rủi ro thông qua tham gia thị trường lao động để có được việc làm tốt, thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững; Nhóm chính sách BHXH: hỗ trợ người dân giảm thiểu rủi ro khi bị ốm đau, tai nạn lao động, tuổi già… thông qua tham gia BHXH để chủ động bù đắp phần thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất do các rủi ro trên; Nhóm chính sách trợ giúp xã hội, bao gồm chính sách trợ cấp thường xuyên và trợ cấp đột xuất; Nhóm chính sách dịch vụ xã hội cơ bản, giúp người dân tiếp cận các dịch vụ cơ bản về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin truyền thông. Đảng và Nhà nước đã có những bộ luật nhằm hỗ trợ, thi hành những chính sách thuộc 4 nhóm trên như: Bộ luật Lao động sửa đổi (2012): Đảm bảo phát triển thị trường lao động, tăng cường sự tham gia của các đối tác (Nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức môi giới trung gian và người lao động); Tăng cường hỗ trợ của Nhà nước đối với người lao động yếu thế thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm; Luật Việc làm (2013): bao gồm cả khu vực kinh tế phi chính thức, tạo điều kiện hỗ trợ lao động nghèo, lao động nông thôn, người thất nghiệp và tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức. Luật Việc làm (năm 2013): mở rộng cơ hội cho người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp (mọi lao động làm việc trong các doanh nghiệp có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên đều bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp).

Hệ thống chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) không ngừng mở rộng, bao phủ các nhóm đối tượng từ trẻ sơ sinh đến người già; hỗ trợ không chỉ người nghèo mà còn mở rộng sang các đối tượng khác như: người cao tuổi (Luật Người cao tuổi 2009), Người khuyết tật (Luật Người khuyết tật 2010), trẻ em (Luật Bảo vệ chăm sóc trẻ em sửa đổi năm 2016)[2],... Mức trợ cấp được điều chỉnh tăng dần qua từng thời kỳ. Nguồn lực thực hiện chính sách TGXH đa dạng, kết hợp ngân sách trung ương, địa phương và của xã hội. Các hình thức trợ giúp ngày càng đa dạng, bao gồm tiền mặt hàng tháng, tiền nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội; hỗ trợ về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch…

Luật BHXH sửa đổi (năm 2014): Mở rộng diện tham gia BHXH bắt buộc đối với người lao động làm việc có hợp đồng từ 1 tháng trở lên; tăng cường chế tài đối với việc trốn đóng BHXH; hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện theo hướng linh hoạt và phù hợp với điều kiện về việc làm và thu nhập của lao động trong khu vực phi chính thức; hỗ trợ, khuyến khích người lao động nghèo, khu vực phi chính thức tham gia BHXH hiện đại hóa công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.

Về chính sách hỗ trợ giảm nghèo có: Chính sách tín dụng, hỗ trợ người dân vay vốn làm ăn kinh doanh; Chính sách hỗ trợ sản xuất, đất sản xuất và trồng rừng, khuyến khích nông dân canh tác, sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp hỗ trợ người nghèo về kiến thức và kỹ năng xây dựng kế hoạch, bố trí sản xuất hợp lý, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào tổ chức sản xuất và kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để tăng thu nhập bền vững. Chính sách hỗ trợ đất đai, tư liệu sản xuất, tạo điều kiện cho người nghèo có nhu cầu sử dụng đất để sản xuất, kết hợp với dạy nghề, tạo việc làm, chuyển đổi ngành nghề. Hỗ trợ hộ nghèo về đất sản xuất, tư liệu sản xuất để người nghèo ổn định cuộc sống và thoát nghèo bền vững; Trợ giúp người nghèo có tay nghề cần thiết để tạo việc làm, tăng thu nhập thông qua các khóa dạy nghề ngắn hạn để họ có thể tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm,... Chính sách dạy nghề và tạo việc làm: Tổ chức thực hiện dạy nghề theo Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg ngày 28-9-2015 của Thủ tướng Chính phủ quy định chính sách hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng. Chương trình 134 (Quyết định 134/2004); Quyết định 1672008/QĐ-TTg ngày 12-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ nhà ở cho người nghèo; Quyết định số 716/QĐ-TTg ngày 14-6-2012 của Thủ tướng chính phủ về việc triển khai thí điểm giải pháp hỗ trợ hộ nghèo nâng cao điều kiện an toàn chỗ ở, ứng phó với lũ, lụt vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. Quyết định 67/2010/QĐ-TTg ngày 29/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 167/2008/QĐ-TTg ngày 12-12-2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở[3]. Ngoài ra còn nhiều chính sách khác như hỗ trợ phát triển hộ kinh doanh, doanh nghiệp, tài trợ học phí...

Ba là, đảm bảo an sinh xã hội thông qua kế hoạch, chương trình hành động cụ thể. Hằng năm, Đảng và Nhà nước luôn tổ chức những cuộc họp quan trọng rà soát những điểm đạt được, hạn chế từ đó vạch ra những kế hoạch cụ thể cho công tác an sinh xã hội. Năm 2021, Việt Nam thực hiện đảm bảo an sinh xã hội phải gắn với thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc, phấn đấu sớm hoàn thành các mục tiêu (17 mục tiêu chung và 169 mục tiêu cụ thể) theo Chương trình nghị sự 2030[4]. Tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, định hướng kế hoạch quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững, phải đồng thời gắn với xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển an sinh xã hội, quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030 theo hướng đổi mới. Bên cạnh đó, “quản lý phát triển kỹ năng nghề nghiệp của nguồn nhân lực thông qua phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa 3 cấp trình độ và giữa các phương thức đào tạo, dạy nghề[5]. Hỗ trợ doanh nghiệp tạo công ăn việc làm, tận dụng tối đa nguồn nhân lực nhằm phát huy cao nhất tiềm năng và nguồn vốn nhân lực cho tăng trưởng, phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm bền vững. Quản lý phát triển thị trường lao động đồng bộ trên phạm vi cả nước để liên thông cung - cầu lao động; hình thành và phát triển nhanh thị trường lao động trình độ cao; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng của thị trường lao động (dịch vụ việc làm, cơ sở dữ liệu thông tin, dự báo thị trường lao động...). Quản lý phát triển bảo hiểm xã hội theo Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Về cải cách chính sách BHXH”[6]. Quản lý phát triển trợ giúp xã hội giai đoạn 2021 - 2030 thực hiện theo Quyết định số 488/QĐ-TTg, ngày 14-4-2017, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội 2017-2025 và tầm nhìn đến năm 2030”[7] và rất nhiều kế hoạch cụ thể khác được Đảng và Nhà nước phê duyệt dựa trên cơ sở xuất phát từ thực tiễn gắn liền với thực tiễn và phục vụ thực tiễn hướng tới một hệ thống an sinh xã hội rõ ràng, chiến lược, cụ thể đảm bảo đời sống cho nhân dân.

Bốn là, đảm bảo an sinh xã hội thông qua công tác cán bộ và vai trò tiên phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Từ xưa đến nay thực tiễn cho thấy rằng cán bộ, đảng viên luôn là tầng lớp gương mẫu đi đầu trong mọi công tác của xã hội đặc biệt là lĩnh vực an sinh. Trong thời kỳ khoa học - công nghệ phát triển như vũ bão mỗi cán bộ, đảng viên luôn đã liên tục trau dồi kiến thức, nâng cao tinh thần học hỏi, tác phong công việc chuyên nghiệp nhằm phục vụ nhân dân, đảm bảo lợi ích vì dân. Đảng viên nâng cao tinh thần trách nhiệm, hoạt động công tác an sinh xã hội bằng những hành động cụ thể, mang tính chất lan tỏa ra cộng đồng: 100% đảng viên tham gia phong trào Nông thôn mới, tham gia chương trình hành động vì người nghèo, Phong trào Mỗi làng một sản phẩm, tuyến đường phụ nữ tự quản… Bên cạnh đó mỗi đảng viên có trách nhiệm mua bảo hiểm, hướng dẫn người dân mua bảo hiểm, tuyên truyền vận động người dân tham gia các chính sách, chủ trương của Đảng, sử dụng dịch vụ công, y tế, học đường… Mỗi cán bộ, đảng viên là tấm gương có ảnh hưởng lớn để hình thành nên lối sống nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam, vì vậy, ngày 7-6-2012 Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp[8]. Cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt phải có sự gương mẫu, nghiêm túc trong công việc, chức vụ càng cao thì đòi hỏi sự gương mẫu càng cao vì mỗi hành động của cán bộ đều là yếu tố trực tiếp đến tập thể và cá nhân. Trong mọi lĩnh vực đặc biệt là lĩnh vực an sinh xã hội, cán bộ nói phải đi đôi với làm; nêu gương sáng về đạo đức thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; nêu gương về tinh thần trách nhiệm cao trong thực thi công việc, hoàn thành tốt nhất chức trách, nhiệm vụ được giao; không tham nhũng tiêu cực; sâu sát thực tế, gắn bó với quần chúng, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Nêu cao ý thức toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân; làm việc với thái độ khách quan, công tâm; chủ động đối thoại với nhân dân và cán bộ dưới quyền; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, vô cảm, hách dịch, nhũng nhiễu gây phiền hà nhân dân.

Năm là, đảm bảo an sinh xã hội bằng công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực an sinh xã hội luôn được thực hiện đều đặn hằng năm, bám sát thực tiễn hoạt động từ Trung ương đến địa phương chỉ rõ ưu điểm, nhược điểm, khó khăn gặp phải từ đó tham mưu cho các cấp Chính quyền nhằm ra quyết định kịp thời đảm bảo cuộc sống cho nhân dân. Quán triệt quan điểm của Ðảng "giám sát phải mở rộng", "kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm", trong nhiệm kỳ và hằng năm, ủy ban kiểm tra các cấp trực thuộc đã tập trung thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát cán bộ và tình hình nhiệm vụ được giao. Công tác kiểm tra, giám sát tập trung vào việc chấp hành chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; việc gương mẫu trong công việc, việc hoạt động các công tác xã hội, giám sát hoạt động dịch vụ công bên cạnh đố đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Các trường hợp sau khi kiểm tra, xác minh, kết luận đều có hình thức khen thưởng kỷ luật rõ ràng phát huy tinh thần phấn đấu, bên cạnh đó cũng có những chế tài cho những trường hợp sai phạm nhằm răn đe, đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa với trường hợp khác từ đó xây dựng lên niềm tin của nhân dân đối với cán bộ an sinh xã hội, niềm tin và Đảng, Nhà nước.

2. Bức tranh toàn cảnh đảm bảo an sinh xã hội cho người dân dưới sự lãnh đạo của Đảng trong những năm qua

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, công tác đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng ở nhiều phương diện khác nhau, cụ thể như:

Một là, mang lại sự đầy đủ về lương thực cho người dân. Bằng sự phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, ngành đoàn thể mà vấn đề nền tảng của an sinh xã hội là lương thực đã được giải quyết. Người dân, đặc biệt là dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa không còn thiếu lương thực, vùng nào còn khó khăn thì được Nhà nước trợ cấp, hướng dẫn canh tác, trồng cây lương thực ngắn ngày, dài ngày, cây lương thực chất lượng đã được nghiên cứu và thẩm định thực tế. Những vùng nông nghiệp trọng điểm như Đồng bằng sông Cửu Long, Đồng bằng duyên hải miền Trung, Đồng bằng sông Hồng được Nhà nước chỉ đạo phối hợp với Viện Nông nghiệp nghiên cứu ra những giống lúa nhiều về sản lượng cao về chất lượng, ngày càng thơm ngon hơn như giống lúa ST25 ngon nhất thế giới. Ngoài ra, còn rất nhiều sản phẩm cây trái chất lượng được nghiên cứu và ứng dụng thành những sản phẩm thương hiệu Việt Nam như khoai mì, ngô siêu hạt, sầu riêng Nam Bộ, giống ổi bát Hải Dương... vừa giúp đất nước đảm bảo về lương thực vừa là cơ sở điều kiện để ngành nông nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên vũ đài Quốc tế. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 7 tháng năm 2020, Việt Nam xuất khẩu khoảng 3,9 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,9 tỷ USD, tăng 10,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước[9]. Đặc biệt là giá gạo xuất khẩu của Việt Nam tăng cao, vượt Thái Lan, Ấn Độ và Pakistan. Đây là lần thứ 2 Việt Nam có thể trở lại vị trí xuất khẩu gạo số 1 thế giới[10].

Hai là, việc làm cho người lao động được quan tâm và triển khai ngày càng hiệu quả. Trong thời gian qua, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tham mưu, trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương (phần khu vực doanh nghiệp) và Nghị quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, Bộ đã trình Quốc hội ban hành một số luật như: Luật Trẻ em năm 2016, Bộ luật Lao động năm 2019; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) năm 2020. Bằng sự phối hợp nhịp nhàng từ Trung ương đến địa phương, thực hiện theo kế hoạch của Đảng, triển khai các hội thảo việc làm, liên kết nhà trường đào tạo với doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ việc làm, đầu mối doanh nghiệp, các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước… đã diễn ra tốt đẹp giúp thị trường lao động Việt Nam có sự chuyển biến mạnh mẽ, giảm thiểu tình trạng thừa thầy thiếu thợ, tay nghề người lao động cũng từ đó được nâng cao, các doanh nghiệp cũng tự tin giao đúng người xứng việc. Kết quả, tuyển sinh 5 năm đạt 11,1 triệu người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 51,6% lên 64,5%, trong đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 20,29% lên 24,5% vào năm 2020[11].

Ba là, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, dưới sự lãnh đạo của Đảng, địa phương các cấp chủ động triển khai nhiều chương trình hỗ trợ giảm nghèo, giảm nghèo bền vững như chương trình nông thôn mới, chương trình cấp tín dụng hỗ trợ phát triển nông thôn, bàn giao đất nông nghiệp, đất rừng cho người dân tự quản, hỗ trợ con, cây giống, hỗ trợ đào tạo, tìm việc làm, định hướng nghề nghiệp cho nhân dân ở những vùng kinh tế khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, ven biển, hải đảo… Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 2,75% năm 2020, trung bình giảm 1,43%/năm (chỉ tiêu 1-1,5%/năm), tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 4%/năm, có hơn 6 triệu người thoát nghèo, hơn 2 triệu người thoát cận nghèo. Tổng nguồn lực đã bố trí, huy động để thực hiện chương trình giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 là khoảng 120.000 tỷ đồng[12].

Bốn là, các dịch vụ công ngày càng chuyên nghiệp, nhanh chóng. Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ như hiện nay, kế thừa và ứng dụng khoa học - công nghệ từ đó Nhà nước đã đề ra nhiều phương thức quản lý hoạt động hoàn toàn mới và hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu của người dân một cách nhanh chóng đặc biệt là lĩnh vực an sinh xã hội. Các phương thức giao tiếp làm việc tại cấp địa phương đã được số hóa một phần, người dân đến không còn phải chờ đợi lâu, các cơ sở y tế được được mở rộng đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng xa. Trường công lập được mở rộng hỗ trợ học sinh, sinh viên có nhiều lựa chọn, giảm học phí thậm chí một số địa phương đã miễn 100% học phí, tạo môi trường ham học, thân thiện, ươm mầm trí tuệ của con dân Việt Nam. Các dịch vụ công cộng cũng được phát triển mạnh, chăm lo cho đời sống nhân dân, hệ thống điện nước, in-tơ-nét, truyền hình ngày càng nhanh và đầy đủ, các ứng dụng, phần mềm được nghiên cứu ứng dụng vào thực tế vừa hỗ trợ doanh nghiệp, hỗ trợ nhà nước quản lý (ứng dụng PC-Covid, ứng dụng Sổ sức khỏe điện tử, hệ thống quản lý nhà nước, trường học, bệnh viện… ) nhằm giúp gắn kết Nhân dân với Nhà nước, công việc được xử lý nhanh chóng, hỗ trợ nhà nước quản lý dễ dàng đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trong thời kỳ hội nhập và phát triển.

Ngoài ra, trong tình hình dịch bệnh diễn biến căng thẳng, Đảng đã chỉ đạo xuyên suốt yêu cầu phối hợp nhịp nhàng giữa các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương triển khai đúng, đủ và cụ thể các kế hoạch đã lên đảm bảo các yêu cầu cấp thiết của người dân trong quá trình thực hiện các biện pháp phòng, chống, đẩy lùi dịch COVID-19. Tính đến ngày 29-8-2021, công đoàn các cấp đã chi trên 3.950 tỷ đồng[13] hỗ trợ tuyến đầu chống dịch và đoàn viên, người lao động; kêu gọi huy động các nguồn lực xã hội cùng chăm lo cho người lao động; chủ động tổ chức hình thành các mô hình siêu thị 0 đồng, ATM gạo, gian hàng lưu động 0 đồng,… giảm giá các mặt hàng thiết yếu để kịp thời hỗ trợ công nhân lao động lương thực, các nhu yếu phẩm; vận động hơn 8.100 doanh nghiệp thành lập 42.220 tổ an toàn COVID-19[14] tại cơ sở để nắm tình hình đời sống công nhân lao động; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng nắm chắc tình hình sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, việc làm, thu nhập của người lao động và các vấn đề phát sinh. Nhờ đó, đời sống của người dân được giữ vững, đời sống chính trị xã hội ổn định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ.

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu quan trọng song phương thức lãnh đạo của Đảng còn bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế trong thực tiễn; công tác áp dụng chỉ đạo của Đảng còn cứng nhắc chưa phát huy được ý tưởng định hướng mang tính chiến lược của các cấp lãnh đạo; việc thực hiện chưa được thống nhất, nhất quán, xuyên suốt từ cấp trên đến cấp dưới dẫn đến việc hiểu sai, thực hiện sai, giảm hiệu quả trong thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người dân,…; mặc dù chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước luôn được ban hành nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn, định hướng phát triển ngắn hạn, trung hạn, dài hạn nhưng một số chủ trương, chính sách còn mang tính chất chắp vá chưa có định hướng cụ thể, chưa phù hợp với một số vùng kinh tế đặc biệt là vùng sâu vùng xa, nơi chưa có nhiều nhân lực đi thị sát tình hình thực tế; công tác hỗ trợ giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, giảm nghèo đa chiều vẫn còn nhiều bất cập, nguồn nhân lực thực hiện còn thiếu, vị trí địa lý, khí hậu, sản phẩm đặc trưng tại từng vùng hoàn toàn khác nhau, hơn nữa thiên tai dịch bệnh đã cản trở không nhỏ vào quá trình lãnh đạo hướng tới nền kinh tế thoát nghèo, no đủ và phát triển; không ít cán bộ, đảng viên chưa chủ động, tích, thậm chí còn mang tính chất hời hợt trong việc tham mưu, chỉ đạo và quán triệt thực hiện chính sách an sinh xã hội cho người dân.

Cho dù đã có nhiều chính sách phù hợp, thay đổi kịp thời với thực tiễn nhưng những hạn chế luôn luôn nảy sinh vấn đề mới bắt nguồn từ nhiều yếu tố (khách quan và chủ quan): Đầu tiên cần nói đến là phương thức lãnh đạo của Đảng trên nhiều lĩnh vực chưa cụ thể, rõ ràng; công tác chỉ đạo chưa được phân quyền rõ ràng, xuyên suốt, sự phối hợp nội bộ chưa nhịp nhàng; việc ban hành các chủ trương,chính sách ở nhiều nơi, nhiều địa phương chưa sát với thực tiễn, chưa làm rõ vai trò quan trọng của nhân dân, vai trò của Đảng từ đó hoạt động lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực an sinh xã hội gặp nhiều khó khăn chế độ khen thưởng đối với cá nhân tổ chức có đóng góp, đi đầu trong công tác an sinh xã hội chưa phù hợp, chưa khích lệ, phát huy được hết tinh thần phấn đấu, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên. Ngoài ra, những yếu tố bên ngoài như môi trường, điều kiện kinh tế, hoàn cảnh thực tiễn của mỗi địa phương là hoàn toàn khác nhau, bản sắc văn hóa, phong tục tập quán từng vùng đều khác nhau cũng gây một phần khó khăn đối với hoạt động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực an sinh xã hội.

3. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay

Hiện nay, tình hình dịch bệnh đang diễn biến phức tạp ảnh hưởng trực tiếp đến công tác đảm bảo an sinh xã hội: Tỷ lệ hộ nghèo, thất nghiệp gia tăng, doanh nghiệp, hộ kinh doanh bị ảnh hưởng nặng nề, giáo dục, y tế, công nghiệp, thương nghiệp… bị gián đoạn. Nhân dân và Đảng cần đồng lòng vượt qua khó khăn, giải quyết vấn đề trước mắt, xây dựng nền tảng cho trung hạn dài hạn. Phương thức lãnh đạo của Đảng cần đổi mới để phù hợp với tình hình thực tiễn giải quyết vấn đề an sinh cho người dân, xây dựng sự thịnh vượng của quốc gia, hướng tới mục tiêu mở cửa hội nhập. Vì vậy, để tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội ở Việt Nam ngày càng hiệu quả cần tập trung thực hiện một số giải pháp, khuyến nghị cơ bản sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về chính sách an sinh xã hội, phải xuất phát từ thực tiễn, gắn liền liễn với thực tiễn và phục vụ thực tiễn. Lãnh đạo bằng đường lối, chủ chương, nghị quyết, chỉ thị vẫn là phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng đối với Nhà nước. Trong thời đại mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đặc biệt là trong lĩnh vực an sinh xã hội cần phải có chất lượng, tầm nhìn, tính khoa học và tính thực tiễn, cần xác định đúng và trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, từng ngành. Để đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước vừa là cơ sở chính trị, vừa là “cẩm nang” để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan nhà nước, các cấp ủy, tổ chức. Bên cạnh đó, căn cứ vào tình hình thực tiễn an sinh xã hội Việc xây dựng chủ trương, nghị quyết đòi hỏi phải phát huy dân chủ, trí tuệ, sáng kiến của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, các chuyên gia, các nhà khoa học, các cơ quan tham mưu, mà rộng ra là của toàn Đảng, hệ thống chính trị và toàn dân. Đó là quá trình nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm, nắm bắt nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đổi mới chính sách, chủ trương cần các cấp ủy, tổ chức Đảng phải ngắn gọn, súc tích, từ tên, tiêu đề cho đến nội dung dễ dàng, dễ hiểu, dễ tiếp thu, dễ vận dụng.

Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân. Trước tình hình xã hội ngày càng phát triển nhiều vấn đề phát sinh, để nâng cao hơn chất lượng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Các bộ, ban, ngành và các các địa phương tiếp chỉ đạo nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật; xác định xây dựng pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; gắn kết việc xây dựng pháp luật với tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật về an sinh xã hội. Cán bộ thực thi chính sách an sinh xã hội cần bám sát chủ trương, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể khác xây dựng pháp luật, pháp chế theo hướng chuyên nghiệp và hiện đại, đáp ứng các yêu cầu công việc đặt ra. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ cho đội ngũ này. Củng cố kiện toàn tổ chức pháp chế, tổ chức làm công tác xây dựng pháp luật. Ưu tiên, tăng cường nguồn lực, nhất là nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động xây dựng pháp luật về an sinh xã hội.

Ba là, xây dựng kế hoạch lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực an sinh cụ thể vừa giải quyết vấn đề ngắn hạn, vừa là tiền đề cho nền tảng dài hạn. Nhà nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng trong tình hình mới, thời đại cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, Đảng cần có kế hoạch cụ thể hơn nữa kế thừa và phát huy kế hoạch đã vạch ra, vừa bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với thời cuộc. Trong lĩnh vực an sinh xã hội Đảng đã có nhiều kế hoạch cụ thể cho vấn đề giảm nghèo, giảm nghèo bền vững, giải quyết việc làm, bảo hiểm xã hội, dịch vụ công… tựu chung lại mục tiêu cuối cùng là nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, Đảng hoàn thiện phương thức lãnh đạo gắn với thực tiễn đời sống xã hội từng vùng, từng miền; các hoạt động đều đặt lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, đảm bảo người dân được đầy đủ về nhiều mặt từ kinh tế, các dịch vụ xã hội, tính mạng và sức khỏe đặc biệt là an sinh xã hội trên lĩnh vực tinh thần. Các cấp lãnh đạo cần xây dựng kế hoạch dựa trên nguyên tắc coi trọng  thực tiễn để giải quyết vấn đề hiện tại, tầm nhìn trung hạn và dài hạn.

Bốn là, nâng cao ý thức gương mẫu, tự giác, đi đầu trong các phong trào của cán bộ, đảng viên. Để công tác lãnh đạo của Đảng thành công hơn nữa trên lĩnh vực an sinh xã hội thì mỗi cán bộ đảng viên nâng cao tinh thần trách nhiệm dám đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, đảng viên ở các cơ quan, nhất là cấp địa phương cần ra sức tham gia tích cực xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, sửa chữa, nâng cấp nhiều hạng mục góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng đi đôi với việc giáo dục đạo đức, lối sống cho đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, không để có những biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ Đảng phải bị xử lý nghiêm minh.  Ngoài ra, mỗi  trong kế hoạch hoạt động của cán bộ đảng viên cần có nội dung phải trực tiếp tham gia vào công tác xóa đói, giảm nghèo, trực tiếp đi đầu trong các hoạt động cộng đồng như xây dựng nông thôn mới, gia đình văn hóa, các chương trình xanh sạch đẹp đường thôn, ngõ, xóm.

Năm là, nâng cao công tác kiểm tra, đánh giá trong thực thi các hoạt động đảm bảo an sinh xã hội cho người dân. Sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực an sinh xã hội cần có sự nghiêm túc chấp hành của từng cán bộ, đảng viên. Công tác kiểm tra, giám sát cần cần được triển khai hiệu quả, phối hợp chặt chẽ với các bên liên quan, đặc biệt là phối hợp với Nhân dân “Dân là tai, là mắt” để kịp thời khen thưởng, kỷ luật đúng người, đúng việc, quyết tâm loại bỏ những cá nhân có hành động sai trái, không thực hiện đúng nhiệm vụ mà  Đảng và Nhân dân giao phó, nhằm đẩy mạnh việc chăm lo cho đời sống nhân dân, tạo dựng niềm tin với nhân dân, gắn kết nhân dân và Đảng là một. Bên cạnh đó, các quy định, quy chế, hướng dẫn về kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được sửa đổi, bổ sung, ban hành bảo đảm đồng bộ, thống nhất và chặt chẽ hơn, xác định rõ hơn nội dung, đối tượng kiểm tra, giám sát làm cơ sở để xem xét, đánh giá, kết luận, xác định trách nhiệm của tập thể, cá nhân vi phạm và nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng"[15].

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, nhân dân và Nhà nước cùng chung ý chí, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, bám sát thực tiễn. Đẩy nhanh công tác hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội, hệ thống pháp luật nhằm hình thành khung sườn vững chãi, liên tục đổi mới để gắn liền với tình hình thực tế, khắc phục triệt để những biểu hiện kiểm tra, giám sát qua loa, đại khái, hình thức, hời hợt. Nâng cao chất lượng dịch vụ công, đổi mới chính sách bảo hiểm thất nghiệp; giải quyết việc làm; thực hiện các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe và tầm vóc của người dân... Từ đó, khẳng định vị trí, vai trò của Đảng trên lĩnh vực đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng cơ sở và điều kiện để Nhân dân ấm no, hạnh phúc, hội nhập và phát triển.


[1] Nguyễn Trọng Đàm (2015), Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=24324.

[2] Đào Quang Vinh (2017), An sinh xã hội ở Việt Nam: Những thành tựu, thách thức và định hướng phát triển, http://ilssa.org.vn/vi/news/an-sinh-xa-hoi-o-viet-nam-nhung-thanh-tuu-thach-thuc-va-dinh-huong-phat-trien-208.

[3] Nông Thị Thùy Linh (2021), Chính sách hỗ trợ giảm nghèo tại Việt Nam hiện nay, https://luatminhkhue.vn/chinh-sach-ho-tro-giam-ngheo-tai-viet-nam-hien-nay.aspx.

[4] Nguyễn Hữu Dũng (2021), Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823812/quan-ly-phat-trien-an-sinh-xa-hoi-ben-vung-giai-doan-2021---2030.aspx.

[5] Nguyễn Hữu Dũng (2021), Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, Tlđd.

[6] Nguyễn Hữu Dũng (2021), Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, Tlđd.

[7] Nguyễn Hữu Dũng (2021), Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, Tlđd.

[8] Đoàn Thanh niên trường Cao đẳng Đường sắt - Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam(2020), Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong giai đoạn hiện nay, http://doanhnghieptrunguong.vn/giai-bua-liem-vang/202011/bai-du-thi-giai-bua-liem-vang-lan-thu-v-nam-2020-phat-huy-vai-tro-tien-phong-guong-mau-cua-doi-ngu-dang-vien-trong-giai-doan-hien-nay-5709917/.

[9] Phong Nguyễn (2020), Việt Nam đang trở lại vị trí xuất khẩu gạo số 1 thế giới, https://laodong.vn/kinh-te/viet-nam-dang-tro-lai-vi-tri-xuat-khau-gao-so-1-the-gioi-827721.ldo.

[10] Phong Nguyễn (2020), Việt Nam đang trở lại vị trí xuất khẩu gạo số 1 thế giới, Tlđd.

[11] Ngân Anh (2021), 10 thành tựu nổi bật về lao động - thương binh và xã hội giai đoạn 2016-2020, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/10-thanh-tuu-noi-bat-ve-lao-dong-thuong-binh-va-xa-hoi-giai-doan-2016-2020-631398/.

[12] Mạnh Hưng (2021), Đề xuất chương trình giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2021-2025, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/de-xuat-chuong-trinh-giam-ngheo-ben-vung-cho-giai-doan-2021-2025-663868.

[13] Nguyên Hải (2021), Bảo đảm thực hiện công tác an sinh xã hội thiết thực, hiệu quả, http://www.mod.gov.vn/.

[14] Nguyên Hải (2021), Bảo đảm thực hiện công tác an sinh xã hội thiết thực, hiệu quả, Tlđd.

[15] Lê Văn Cường (2021), Những điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII, https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/nhung-diem-moi-ve-cong-tac-kiem-tra--giam-sat--ky-luat-dang-trong-van-kien-dai-hoi-xiii/937388-998828-222487.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Ngân Anh (2021), 10 thành tựu nổi bật về lao động - thương binh và xã hội giai đoạn 2016-2020, https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/10-thanh-tuu-noi-bat-ve-lao-dong-thuong-binh-va-xa-hoi-giai-doan-2016-2020-631398.

2. Lê Văn Cường (2021), Những điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII, https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/nhung-diem-moi-ve-cong-tac-kiem-tra--giam-sat--ky-luat-dang-trong-van-kien-dai-hoi-xiii/937388-998828-222487.

3. Nguyễn Hữu Dũng (2021), Quản lý phát triển an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021-2030, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_xa_hoi/-/2018/823812/quan-ly-phat-trien-an-sinh-xa-hoi-ben-vung-giai-doan-2021---2030.aspx.

4. Nguyễn Trọng Đàm (2015), Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, http://www.molisa.gov.vn/Pages/tintuc/chitiet.aspx?tintucID=24324.

5. Đoàn Thanh niên trường Cao đẳng Đường sắt - Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam(2020), Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong giai đoạn hiện nay, http://doanhnghieptrunguong.vn/giai-bua-liem-vang/202011/bai-du-thi-giai-bua-liem-vang-lan-thu-v-nam-2020-phat-huy-vai-tro-tien-phong-guong-mau-cua-doi-ngu-dang-vien-trong-giai-doan-hien-nay-5709917.

6. Nguyên Hải (2021), Bảo đảm thực hiện công tác an sinh xã hội thiết thực, hiệu quả, http://www.mod.gov.vn/.

7. Mạnh Hưng (2021), Đề xuất chương trình giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 2021-2025, https://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc/de-xuat-chuong-trinh-giam-ngheo-ben-vung-cho-giai-doan-2021-2025-663868.

8. Nông Thị Thùy Linh (2021), Chính sách hỗ trợ giảm nghèo tại Việt Nam hiện nay, https://luatminhkhue.vn/chinh-sach-ho-tro-giam-ngheo-tai-viet-nam-hien-nay.aspx.

9. Phong Nguyễn (2020), Việt Nam đang trở lại vị trí xuất khẩu gạo số 1 thế giới, https://laodong.vn/kinh-te/viet-nam-dang-tro-lai-vi-tri-xuat-khau-gao-so-1-the-gioi-827721.ldo.

10. Đào Quang Vinh (2017), An sinh xã hội ở Việt Nam: Những thành tựu, thách thức và định hướng phát triển, http://ilssa.org.vn/vi/news/an-sinh-xa-hoi-o-viet-nam-nhung-thanh-tuu-thach-thuc-va-dinh-huong-phat-trien-208.

Phản hồi

Các tin khác

Mới nhất

Xem nhiều nhất